Hình ảnh minh họa một chú mèo con
Vọng tưởng, hiểu đơn giản là những suy nghĩ, cảm xúc xuất hiện trong tâm trí, vượt ra ngoài sự nhận biết trực tiếp của chúng ta về thực tại. Nó bao gồm cả những điều vui vẻ, tích cực, nhưng cũng có thể là nguồn gốc của đau khổ.
Ngày tôi mới học thiền với Hòa thượng, tôi đã từng nhặt được một chú mèo con. Chăm sóc nó từ khi còn bé xíu, cho đến khi nó lớn khôn và sinh sản. Vậy mà, chỉ sau vài ngày, nó đã bị người ta thuốc chết. Cái xác nằm dưới gầm xe, máu còn vương trên khóe miệng, mắt mở trừng trừng. Sáu đứa con nhỏ khát sữa kêu gào thảm thiết.
Lòng tôi đau như cắt. Nỗi đau nghẹn ứ, không thể khóc thành lời. Hình ảnh con mèo nằm chết dưới gầm xe cứ ám ảnh tôi. Những lời bàn tán xung quanh càng khiến ruột gan tôi quặn thắt. Tôi cấm mọi người nhắc đến con mèo, và cố gắng gạt bỏ mọi suy nghĩ về nó ra khỏi đầu. Tôi chìm trong nỗi đau riêng mình, trong một không gian tĩnh lặng.
Và rồi, một điều kỳ diệu đã xảy ra.
Ngay tại nơi đau đớn nhất, một cảm giác an lạc bỗng xuất hiện, xua tan mọi khổ sở. Thầy tôi, Hòa thượng Tài Chi, từng nói: “Phiền não tức bồ-đề”. Ngay trong phiền não đã có sẵn sự không phiền não. Bồ-đề là giác ngộ. Khi giác ngộ hiện diện, sự thanh lương và an lạc sẽ đến, phiền não sẽ tan biến.
Thực tế cuộc sống và sự vọng tưởng
Phần lớn những đau khổ của chúng ta không phải do bản thân sự việc gây ra, mà do “cái tưởng” của chúng ta quá nhiều. Đau một, nhưng do tưởng mà đau mười. Chính sự vọng tưởng biến mọi việc thành khổ đau. Những người mất đi người thân thường ôm ấp kỷ niệm, lật giở album ảnh, chìm đắm trong quá khứ. Chính điều này kéo dài nỗi đau của họ. Ta cần học cách vứt bỏ những gì cần vứt bỏ. Thiền sư Sessan đã từng nói:
“Ai vọng tưởng nhiều và phân biệt nhiều thì đau khổ nhiều. Nhưng năng lực khiến ta lầm lẫn đau khổ cũng chính là năng lực làm ta tỉnh giác và an lạc.”
Quả thực, không có đau khổ, chúng ta sẽ không bao giờ biết cách tỉnh giác và nếm trải sự an lạc.
Vọng tưởng là những gì xuất hiện trong tâm trí, nằm ngoài sự nhận biết trực tiếp của chúng ta. Nó bao gồm tất cả các trạng thái cảm xúc, suy nghĩ, quan niệm. Loại vọng tưởng mà Thiền sư Sessan đề cập đến là “vọng tưởng dung thông”. Đó là khi ta nghe một điều, liền tưởng tượng ra những điều khác liên quan. Nghe đến “nước”, liền hình dung ra chất lỏng. Nghe đến “me”, nước miếng ứa ra.
Hình ảnh minh họa Khổng Tử và học trò
Người vọng tưởng nhiều thường có ý thức phân biệt rất nhanh nhạy. Thiên hạ hay gọi đó là “nhạy cảm”. Câu chuyện “kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa” là một ví dụ điển hình của vọng tưởng dung thông. Dù người ta nói gì, ta cũng tưởng họ đang nói mình. Ta ít khi chịu dừng lại ở những gì người ta thực sự nói, mà thường “đầu lại thêm đầu”, như các thiền sư vẫn nhắc nhở.
Con mèo chết. Ừ thì con mèo chết. Nếu chỉ có vậy, ta sẽ không đau khổ. Nhưng ta đau khổ vì trong đầu ta xuất hiện vô vàn những thứ khác: hình ảnh con mèo, việc nó bỏ lại đàn con, cái chết oan uổng, ánh mắt trừng trừng, v.v… Ôm ấp mớ vọng tưởng đó, ta tự tạo ra phiền não. Con mèo chết là con mèo chết. Biết vậy là đủ. Đừng dung thông thêm bớt gì nữa, thì sẽ không phiền não. Nhưng thói quen này đã ăn sâu vào ta từ nhiều đời. Cứ thế, thứ này dung thông thứ kia, tạo nên một chuỗi phản ứng liên hoàn. Ta trở thành nạn nhân của chính sự đau khổ, chỉ vì để cho “cái tưởng” hoạt động quá mạnh mẽ.
Con gái mua yến về, bảo mẹ nấu cho con dâu ăn. Nếu chỉ nghe vậy và làm theo, mọi chuyện sẽ yên ổn. Mệt thì bảo con dâu tự nấu, cũng không sao. Cuộc sống đơn giản, hạnh phúc. Nhưng vì có “chàng vọng tưởng dung thông” xuất hiện, nên trong đầu nổi lên bao nhiêu suy nghĩ: “Cha mẹ già không biết nghĩ tới, còn bắt mẹ nấu cho dâu ăn, v.v…”. Phiền não lập tức nảy sinh. Nếu không nhận biết và quán tâm để thấy “đầu lại thêm đầu”, thì mọi chuyện sẽ không dừng lại ở đó.
Đơn giản trở thành rối rắm. Hoặc khi ai đó nhờ “Bà đọc dùm tui cái này coi có hiểu không?”. Cứ theo đó mà làm, sẽ không có gì xảy ra. Hiểu thì nói hiểu, không thì nói không. Nhưng ta lại hay dung thông. Ta nghĩ rằng họ chê mình ngu, liền nổi giận. Hoặc để bụng, ấm ức, tiếp tục suy diễn. Mọi thứ trở nên u ám.
Những chuyện thế gian có khi trở nên to tát, không thể hàn gắn được, chỉ vì để cho vọng tưởng dung thông dẫn dắt. “Vịt trời chắp cánh tha hồ”, có khi không phải do người ta cố ý thêm bớt, mà do “cái tưởng dung thông” hoạt động quá mạnh. Người ta tưởng tượng rồi nói lại, không hề cố ý. Nhưng qua ba bốn tầng vọng tưởng, con vịt trời đã trở nên to đùng.
Một lần, Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết. Thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, dân chúng điêu linh. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh đói khát. Ngày đầu đến Tề, có nhà hào phú biếu ít gạo. Khổng Tử giao Tử Lộ vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm.
Khổng Tử đọc sách trong nhà. Đối diện bếp, Nhan Hồi thổi cơm. Bỗng Khổng Tử nghe tiếng “cộp”. Ông thấy Nhan Hồi mở vung, xới cơm, nắm lại đưa lên miệng. Khổng Tử thở dài: “Học trò quý nhất của ta mà lại ăn vụng. Bao nhiêu kỳ vọng tiêu tan!”. Tử Lộ hái rau về. Nhan Hồi luộc rau. Khổng Tử vẫn đau khổ.
Khi cơm chín, Khổng Tử nói: “Chúng ta đi đường xa vạn dặm, thầy mừng vì các con vẫn giữ lòng thành. Hôm nay có bữa cơm, thầy nhớ đến quê hương, muốn xới ít cơm cúng, các con thấy có nên không?”.
Chỉ trừ Nhan Hồi, mọi người đều đồng ý. Khổng Tử hỏi: “Nồi cơm có sạch không?”.
Nhan Hồi đáp: “Thưa thầy, nồi cơm không sạch”.
Nhan Hồi giải thích: “Khi cơm gần chín, con mở vung, gió thổi bụi xuống làm bẩn cơm. Con định vứt bỏ lớp cơm bẩn, nhưng cơm ít, anh em đông, nên con đã ăn trước phần cơm bẩn ấy. Nồi cơm không thể cúng nữa”.
Khổng Tử than: “Thế ra, nhiều việc chính mắt ta thấy mà không hiểu đúng sự thật. Suýt nữa ta thành kẻ hồ đồ!”.
Câu chuyện cho thấy chúng ta cần tỉnh giác, soi chiếu vọng tưởng dung thông của chính mình.
Kết luận
Vọng tưởng là một phần tất yếu của tâm trí con người. Tuy nhiên, nếu không nhận biết và kiểm soát được nó, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào khổ đau. Bằng cách thực hành tỉnh giác, quan sát những suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách khách quan, chúng ta có thể giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của vọng tưởng và tìm thấy sự an lạc trong cuộc sống.
Chân Hiền Tâm