Tranh Dân Gian Đông Hồ: Tinh Hoa Văn Hóa và Giá Trị Nghệ Thuật Vượt Thời Gian

Tranh dân gian Đông Hồ không chỉ là một phần của ký ức Tết Việt mà còn là biểu tượng văn hóa, chứa đựng giá trị nghệ thuật độc đáo. Từ lâu, việc treo tranh vào dịp Tết Nguyên Đán đã trở thành một nét đẹp truyền thống của người Việt, đặc biệt là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành, những bức tranh Tết với màu sắc tươi tắn mang đến không khí rộn rã, ấm cúng cho mỗi gia đình. Trong số các dòng tranh dân gian, tranh Đông Hồ nổi bật như một điển hình, lưu giữ và phản ánh đậm nét đời sống văn hóa của người Việt xưa.

Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ ra đời vào khoảng thế kỷ XVII tại làng Đông Hồ, tỉnh Bắc Ninh. Vùng đất này, với nền nông nghiệp trù phú và đời sống văn hóa phát triển, đã tạo nên một cái nôi cho dòng tranh chân quê, đậm đà bản sắc dân tộc. Tranh Tết Đông Hồ không đơn thuần là sự minh họa cho ngày Tết, mà còn là sự gửi gắm những ước vọng tốt đẹp, lời chúc phúc cho một năm mới an lành, phát tài, phát lộc. Những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi chứa đựng thông điệp nhân văn sâu sắc. Sự phong phú, đa dạng về mẫu mã, thể loại và chủ đề giúp tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như mọi khía cạnh đời sống bình dị của người lao động, từ “Chăn trâu thổi sáo”, “Hứng dừa”, “Đấu vật”, “Đánh ghen” đến những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn như “Lễ trí”, “Nhân Nghĩa”, “Vinh hoa”, “Phú Quý”, “Lợn đàn”, “Gà đàn”. Tranh Đông Hồ đề cập đến cuộc sống gia đình, lứa đôi với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc, càng ngắm càng cảm nhận được ý nghĩa văn hóa sâu xa, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở về lẽ phải trái ở đời, mang đậm tinh thần lạc quan, trìu mến đối với cuộc sống.

Chất Liệu và Màu Sắc Độc Đáo Của Tranh Đông Hồ

Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt của tranh dân gian Đông Hồ là chất liệu và màu sắc. Giấy in tranh là loại giấy dó, được làm từ vỏ cây dó, có đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai và dễ hút màu, giúp cho việc in tranh không bị nhòe. Để tạo nên nét sáng óng ánh đặc trưng, người ta quét lên giấy dó một lớp hồ điệp, được làm từ vỏ con điệp nghiền nát trộn với hồ (nấu từ bột gạo tẻ, gạo nếp hoặc bột sắn). Chổi lá thông tạo nên những nét ganh chạy theo đường quét, còn vỏ điệp tự nhiên mang đến màu trắng với ánh lấp lánh dưới ánh sáng. Sự óng ả của nền điệp đã đủ tạo nên sức hút cho tranh Đông Hồ, đặc biệt khi được lướt thêm một lớp hòe, màu in lại càng trở nên kỳ diệu, ngả sang màu óng ánh như tơ tằm.

Nền giấy điệp óng ánh đặc trưng của tranh Đông Hồ, tạo hiệu ứng thị giác độc đáo.Nền giấy điệp óng ánh đặc trưng của tranh Đông Hồ, tạo hiệu ứng thị giác độc đáo.

Màu in cũng là một yếu tố độc đáo, thể hiện sự sáng tạo và ứng dụng nguyên vật liệu tự nhiên vào nghệ thuật. Màu đen được lấy từ than xoan hoặc than lá tre, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ từ sỏi non hoặc gỗ vang, màu xanh từ lá chàm hoặc gỉ đồng. Cách pha chế màu cũng phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chất giấy, thể hiện kinh nghiệm, sự sáng tạo và bí quyết gia truyền của mỗi nghệ nhân. Nhờ sự tỉ mỉ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và bền màu.

“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.”

Với ba màu nền chính là trắng điệp, vàng hòe và đỏ vang, tranh dân gian Đông Hồ được bổ sung thêm các màu đen than lá tre, nâu sỏi, xanh chàm, đỏ gấc, vàng thỏ tía… kết hợp với kỹ thuật pha trộn và in chồng màu. Màu khoáng tự nhiên tạo nên những sắc tố thuận mắt, phù hợp với đời sống nông nghiệp của người Việt. Sự tương phản của các sắc tố và sự độc đáo trong sử dụng chất liệu tạo nên giá trị thẩm mỹ độc đáo và khác biệt cho tranh Đông Hồ.

Cách sử dụng màu sắc trong tranh dân gian Đông Hồ còn chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành: màu trắng ứng với hành kim, màu xanh ứng với hành mộc, màu đen ứng với hành thủy, màu đỏ ứng với hành hỏa, màu vàng ứng với hành thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ, màu xanh tượng trưng cho sự sống, sự sinh sôi, là màu của mùa xuân; màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt huyết, là màu của mùa hạ. Màu vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên. Vì vậy, trong tranh Đông Hồ thường thấy màu vàng được sử dụng làm nền, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hòa quan hệ của bức tranh.

Ví dụ, trong tranh Ngũ hổ, hình tượng năm chú hổ được bố trí ở bốn góc tranh, còn chú hổ ở giữa được tô bằng màu vàng, tượng trưng cho mẹ của muôn loài. Bốn chú hổ xung quanh được tô bằng bốn màu tượng trưng cho bốn hành theo chiều tương khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh Đông Hồ thường được khai thác từ độ lấp lánh của vỏ sò trộn với bột hồ, tạo hiệu quả đặc biệt và mang tính đặc trưng của dòng tranh.

Tranh Ngũ Hổ với cách sử dụng màu sắc tượng trưng cho ngũ hành.Tranh Ngũ Hổ với cách sử dụng màu sắc tượng trưng cho ngũ hành.

Tranh dân gian Việt Nam khác với tranh của Nhật Bản ở lối dùng mảng màu nguyên mang tính đối lập in trên thớ điệp. Giấy in tranh đồng thời là màu nền của tranh, với những màu tươi vui, rực rỡ tạo nên bảng màu vừa đằm thắm vừa mang đậm hồn dân tộc.

Bố Cục, Mảng, Nét và Hòa Sắc Trong Tranh Đông Hồ

Về bố cục, nếu hội họa phương Tây tuân thủ quy luật thị giác với phối cảnh không gian xa gần, thì tranh dân gian Đông Hồ sử dụng phối cảnh ước lệ Phương Đông để tạo ra bố cục không gian tượng trưng và khái quát, chắt lọc về đường nét và màu sắc. Bố cục tranh thường được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn theo lối vẽ đơn tuyến bình đồ, mang đến sự thú vị ở những nét ngây ngô, đơn giản nhưng hợp lý, hợp tình.

Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Đông Hồ là sự kết hợp giữa hình thể và chữ đề thơ. Mảng chữ là một phần tạo nên sự chặt chẽ và hoàn chỉnh trong bố cục không gian của tranh, đồng thời thể hiện rõ ý tưởng về nội dung. Nét chữ cũng là nét vẽ trong tranh, hài hòa và ăn ý với nét vẽ ở các hình thể khác. Chỉ với vài nhân vật được tạo hình đơn giản, không gian mang tính ước lệ cùng những chữ đề thơ, người xem vẫn cảm nhận được hết ý vị của tranh, dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa và tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền đạt.

Tranh Đánh Ghen với bố cục ước lệ và chữ đề thơ hài hòa.Tranh Đánh Ghen với bố cục ước lệ và chữ đề thơ hài hòa.

Trong tranh Đánh ghen, nghệ nhân sử dụng phối cảnh ước lệ “đơn tuyến bình đồ” để tạo ra bố cục không gian tượng trưng và khái quát. Cách tạo hình nhân vật mang yếu tố biếm họa, thể hiện ở sự cường điệu hóa các hình thể và đường nét, tạo nên sự sôi động, hài hước trước một tình huống bi kịch gia đình. Các hình ảnh được khắc họa một cách chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật và cảm thức trong sáng, hồn hậu, dí dỏm.

Trong tranh là hình ảnh người vợ cả dữ tợn, cầm kéo xông vào cô vợ trẻ đang thách thức, còn anh chồng che chắn cho người vợ bé, tay ôm lấy bờ vai trần, tay kia đưa ra phía trước như van nài, được thể hiện rõ qua hai câu thơ đề phía trên: “Thôi thôi bớt giận làm lành – Chi đừng sinh sự, hại mình nhục ta”. Bên cạnh hình tượng các nhân vật và không gian ước lệ, gia cảnh của các nhân vật được hình tượng hóa bằng các mảng tường hoa, bình phong, khiến người xem cảm nhận được cái dư vị bi hài muôn thuở của đời sống “chồng chung vợ chạ” thường xảy ra trong các gia đình giàu có.

Thưởng thức bức tranh Đàn lợn âm dương, ta thấy một bố cục hình chữ nhật được đặt trong khung hình chữ nhật. Bức tranh diễn tả lợn mẹ và đàn lợn con trông thật sinh động, các nét cong của mông, lưng và đầu lợn con trông mềm mại và nhịp nhàng. Để tăng thêm sự hài hòa, cân bằng của đường nét, trên mình lợn được điểm xuyết bởi các vòng xoáy âm dương, vừa khiến các mảng đỡ đặc, vừa thể hiện tính hài hòa trong trang trí. Sự sắp xếp các con lợn quây quần bên nhau, giữa đàn lợn con và lợn mẹ hòa vào nhau tạo ra một bố cục chặt chẽ, thể hiện rõ chủ đề “chúc tụng”, chúc cho sự sinh sôi nảy nở, con cháu đầy đàn.

Tranh Đàn Lợn Âm Dương với bố cục chặt chẽ và ý nghĩa chúc tụng.Tranh Đàn Lợn Âm Dương với bố cục chặt chẽ và ý nghĩa chúc tụng.

Về mảng, nét và phối màu, nét là một phần cực kỳ quan trọng trong tranh dân gian Đông Hồ, quyết định đến vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh. Nét khoanh lấy các mảng màu giữ cho màu đằm trên giấy, tạo nên sự nhất quán giữa hình và mảng, diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét viền to nhỏ đậm đà, dứt khoát. Nét trong tranh dân gian Đông Hồ khỏe khoắn nhưng không thô cứng, chắc chắn nhưng mềm mại, uyển chuyển, thanh thoát, tạo nên vẻ đẹp riêng.

Dưới bàn tay của các nghệ nhân, nét rất được chú trọng. Nét và mảng trong tranh rất phong phú, không những nêu bật được nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, mà còn gợi khối, tả chất rất giỏi. Chú trọng lột tả giá trị nội dung hơn là hình thức của tác phẩm. Trên tinh thần đó, tranh dân gian Đông Hồ thoát ra yếu tố tả thực, xây dựng diện hình, mảng hình dẹt, bỏ qua vờn khối. Vai trò của thủ pháp ước lệ trong tạo hình được đề cao và khai thác. Chính nhờ thủ pháp đó, người nghệ nhân khi làm tranh đã bỏ qua các yếu tố đúng sai, đẹp xấu về mặt hình thức; chú trọng biểu cảm về mặt nội dung, sao cho tác phẩm mang được tiếng nói riêng, tình cảm của người sáng tác. Hơn thế nữa, sự tượng trưng, ước lệ về cách phối màu, dùng màu, thoát li bản chất của cấu trúc tự nhiên sự vật, nâng lên bằng những gam màu, mảng màu có tính khái quát cao.

Các nghệ nhân đã quy các hình tượng nhân vật trong tranh vào các dạng hình học cơ bản: như hình tam giác, hình thang, hình tròn, ví dụ như trong tác phẩm Đánh vật, Hứng Dừa, Ngũ hổ… Trên cơ sở đó, nghệ nhân kết hợp các thủ pháp nhấn mạnh và lược bỏ, tập trung chú trọng vào những nhân vật, đối tượng chính, quan tâm những nhận vật trung tâm để xử lí hình, mảng hay biểu cảm nội tâm nhân vật qua đó, chuyển tải nội dung của tác phẩm đến người xem với hiệu quả trực cảm mạnh mẽ.

Tiêu biểu là bức tranh Đấu vật, một trong những bức tranh nổi tiếng của tranh dân gian Đông Hồ, vẽ về cảnh đấu vật của nam giới trong ngày xuân. Bức tranh chỉ tập trung diễn tả các đô vật cùng mầu sắc cực kỳ đơn giản, nhưng với cách sử dụng nét, mảng tài tình, nghệ nhân đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Hình ảnh các đô vật với vóc dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức, quyết tìm các thế vật khác để quật ngã đối phương, dành phần thắng về mình. Trên nền đỏ tươi thắm của nền tranh, chất óng ả của vỏ điệp, trên thân hình các đô vật được viền bằng những nét đen chắc, khỏe, làm tôn vẻ đẹp của tinh thần thượng võ và gợi nên không gian trong ngày hội.

Tranh Đấu Vật với bố cục cân xứng và tinh thần thượng võ.Tranh Đấu Vật với bố cục cân xứng và tinh thần thượng võ.

Trong tranh với ba đôi vật tạo thành mảng tam giác ở giữa tranh tạo nên một bố cục cho người xem cảm giác vững chắc, các mảng rất phong phú và ăn nhập với nhau và tạo nên thế cân bằng. Kết hợp với nét đen chắc, khỏe, nghệ nhân đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Mảng chữ nhật hai bên với cách diễn tả nét cho thấy hai đô vật đang ngồi ôm đùi, thu chân trước ngực, như nói lên cái không khí se lạnh của tiết trời cũng như thể hiện sự nôn nóng đợi đến lượt mình lên sới. Phía trên là hai mảng hình chữ nhật, nhìn vào ta có cảm giác như hai xâu tiền thưởng hay hai xâu bánh pháo đang được treo nơi sân đình. Chỉ với những hình ảnh đơn giản đó nhưng người thưởng ngoạn như vẫn cảm nhận hết cái gay cấn của cuộc thi, cái se lạnh của tiết xuân, không khí rộn ràng, vui tươi của lễ hội dân tộc.

Giá trị thẩm mĩ trong tranh dân gian Đông Hồ nằm ở vẻ đẹp hài hòa, cân bằng, nét luôn đạt giá trị cân bằng cần thiết trong tranh. Đó là sự cân bằng về lượng và chất, là hậu thuẫn cho mảng và nét tồn tại một cách vững chắc. Nét trong tranh dân gian Đông Hồ mang tính chất phóng khoáng của người nông dân thuần hậu, nét to, chắc, khỏe, dứt khoát khiến cho người xem có những tình cảm gần gũi với cuộc sống ruộng đồng và đầy màu sắc quê hương.

Trong hội họa; mảng nét, tả chất và hình thành khối rất cần thiết, trong tranh dân dân Đông Hồ mảng nét góp phần hình thành khối, trong bức tranh Thầy đồ cóc với cách sử dụng nét kết hợp với mảng đã diễn tả thành công hình khối nhân vật. Thầy đồ cóc nhân vật chính được diễn tả bằng mảng hình to nhất, thầy đồ cóc ngồi chễm chệ trên sập, nét vẽ thầy đồ cóc là những nét cong tả khối bụng, khối lưng, khối cổ và các nét chấm diễn tả chất xù xì của da cóc, trong tranh thầy đồ cóc được thể hiện to nhất đầy tính hách dịch, phía dưới là những học trò với những mảng, hình to nhỏ khác nhau và kích thước nhỏ hơn Thầy đồ cóc rất nhiều. Các nhân vật học trò được diễn tả với những hoạt động khác nhau cùng nét, mảng và màu sắc được thay đổi liên tục tạo nên tổng thể bức tranh là một lớp học lộn xộn: chỗ thì học trò đang chịu hình phạt, chỗ thì đọc sách, chỗ thì đang lo điếu đóm…

Hay bức tranh Đàn gà mẹ con, với cách sử dụng mảng nét không những nêu được đặc điểm mà còn gợi được khối và cảm giác về chất. Bằng cách dùng mảng nét để tả khối hình, các nghệ nhân đã tạo nên bức tranh có sức hút đặc biệt với người xem tranh, mỗi chú gà trong tranh đều có những nét mảng chuyển động khác nhau, có con trèo lên lưng mẹ, có con quay đi quay lại, tạo nên sự liên kết giữa gà mẹ và gà con.

So sánh bức tranh Đánh ghen với bức tranh Hứng dừa chúng ta đều thấy hai bức tranh đều giống nhau về cách tạo hình, không gian, màu sắc, mang yếu tố hài hước dí dỏm nghịch ngợm. Các nghệ nhân Đông Hồ luôn chú ý đến sự hài hòa giữa đường nét, mảng và màu sắc cũng như sự hài hòa về hình thể và khoảng trống sao cho giữa chúng có một tỉ lệ hợp lý, các mảng mầu tươi được đặt cạnh nhau, được làm dịu bởi nét đen thông qua tác dụng tương phản và bổ túc. Tất cả những mầu sắc, giấy dó, và bàn tay tài hoa của người nghệ nhân đã tạo nên những tác phẩm có giá trị lớn mang tính nghệ thuật.

Tranh Vinh Hoa Phú Quý với sự hài hòa trong đường nét, mảng và màu sắc.Tranh Vinh Hoa Phú Quý với sự hài hòa trong đường nét, mảng và màu sắc.

Trong hai bức tranh Vinh hoa – Phú quý, hình vịt, gà, hoa sen, hoa cúc, các mảng to nhỏ, dài ngắn khác nhau tạo nên sự phong phú về mảng nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng và hài hòa. Ở đó, cách sử dụng nét và lượng rất tài tình, tạo nên sự cân bằng, mảng to mảng nhỏ đặt khéo léo. Nét to, nhỏ hợp lý, chắc khỏe, có chỗ lại dùng nét đứt tạo chất, tạo chu vi hình thể trên con vật. Có chỗ thì mảng nhỏ nhưng dùng nét để vẽ (vòng yếm), vừa tạo hình, vừa có tính trang trí.

Có thể nói, cách sử dụng mảng nét và màu sắc tạo nên vẻ đẹp của tranh dân gian Đông Hồ, nét xác định hình màu, nét xác địch hình, xác định màu, nét giữ cho mảng màu đằm trên giấy, tạo ra hòa sắc, tăng thêm vẻ đẹp của bức tranh, nét còn tạo sự nhất quán của hình và các mảng màu, diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét, to nhỏ đậm nhạt, mạnh mẽ khác nhau nhưng không làm cho bức tranh khô cứng, chắc nhưng uyển chuyển thanh thoát, có thể nói mảng nét trong sự phối hợp với màu sắc đã đạt đến một tầm cao của nghệ thuật.

Giá Trị Văn Hóa và Nghệ Thuật Vượt Thời Gian

Tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn giản, dễ hiểu, hình tượng rõ ràng, đã đáp ứng được những nhu cầu về tâm lý, tư tưởng, tình cảm và mong ước của người dân lao động. Vì vậy, tranh dân gian Đông Hồ dễ đi vào lòng người với những ấn tượng sâu sắc, phản ánh các đề tài gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân, phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay – ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh với những cách thể hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế và giàu chất biểu cảm.

Ngày nay, “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và đang được lập hồ sơ trình UNESCO để xét tặng danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Với sự thành công cũng như sự quan tâm đó, hy vọng rằng tranh dân gian Đông Hồ sẽ mãi tồn tại và phát triển, lưu giữ và phát huy những giá trị vốn có của mình, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của nhân dân Việt Nam.