Top các Bài văn phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất

Phân tích Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất là vấn đề trong bài viết hôm nay của Giá Buffet Sen Tây Hồ. Theo dõi bài viết để hiểu nhé.

1. Bài văn phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ số 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm, người với tri thức uyên thâm, từng bước chân trong thị trường quan lại nhưng bất công khó lòng chịu nổi, nên ông đã chấp nhận trở về với cuộc sống yên bình, thanh thoát. Ông còn là một nhà thơ nổi tiếng, tác giả của hai tập thơ lớn là ‘Bạch Vân am thi tập’ (tiếng Hán) và ‘Bạch Vân quốc ngữ thi’ (tiếng Nôm).

Bài thơ ‘Nhàn’, được rút từ tập thơ ‘Bạch Vân quốc ngữ thi’, là lời diễn đạt của Nguyễn Bỉnh Khiêm về cuộc sống đẹp, an nhàn và thanh tịnh ở quê hương. Bài thơ mang đến hình ảnh tâm hồn tràn đầy niềm vui và sự thanh tịnh. Chỉ với 8 câu thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo nên bức tranh cuộc sống nhàn nhã, bình dị ở vùng quê Bắc Bộ.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lặp ‘một’-‘một’, Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, không đơn độc nhưng vẫn giữ được vẻ thanh thản. Hai câu thơ khắc họa hình ảnh của ông như một người nông dân tận hưởng cuộc sống với đồng quê.

Câu thơ thứ hai gợi lên hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm thơ thẩn tìm niềm vui và thú vị trong cuộc sống đơn giản. Dù bên ngoài có sự hối hả, ông vẫn chọn ‘thơ thẩn’ để tận hưởng cuộc sống hiện tại. Ông sống theo cách riêng, không để ý đến sự ồn ào xung quanh.

Câu thứ ba và thứ tư tiếp tục mô tả sự đối lập giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và những người chọn đường sự nghiệp:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Ông tự nhận mình ‘dại’ khi chọn nơi yên bình, nhưng điều này làm nổi bật sự độc đáo và đẳng cấp của ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm tôn trọng sự giản dị, bình dị và không muốn theo đuổi sự huy hoàng của chốn đông người. Ông coi trọng cuộc sống thanh lịch và tao nhã hơn là sự nghiệp ồn ào và phô trương.

Câu thơ cuối cùng là triết lý cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Ông coi trọng giá trị thiên nhiên và sự giản dị. Rượu đến từ cây cỏ, ông chọn cách tận hưởng cuộc sống bằng những điều đơn giản. Phú quý với ông không phải là sự giàu có về vật chất, mà là giấc mơ nhẹ nhàng, như một chiêm bao không thực tế. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương sống đẹp, không bị cuốn theo vòng xoáy của thành tựu vụ lợi.

Bằng 8 câu thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm nổi bật tư tưởng và tâm hồn thanh tao, bình dị của mình. Bài thơ ‘Nhàn’ không chỉ là sự sáng tác nghệ thuật, mà còn là tấm gương cho cuộc sống giản dị và ý nghĩa. Thậm chí sau bao thế hệ, tác phẩm vẫn là nguồn cảm hứng cho những người tìm kiếm giá trị đích thực của cuộc sống.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

3. Phân tích ‘Nhàn’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài văn xuất sắc

 

Trong xưa, ai cũng mơ ước có một chân trong chốn quan trường, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ và quân thần trung quân ái quốc, đã chọn ở ẩn tại quê nhà.

Bài thơ ‘Nhàn’ của ông thể hiện sự nhàn rỗi khi rời xa quan trường và phản ánh quan điểm về chốn quan trường: ‘dại’ hay ‘khôn’ chỉ có thể hiểu rõ qua bài thơ của ông.

Tiêu biểu cho cuộc sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là hai câu thơ đầu:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Hình ảnh quen thuộc của làng quê, công việc làm đồng, tạo nên không gian êm ả yên bình, là nơi ông chọn để tận hưởng cuộc sống nhàn hạ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình ‘dại’ khi chọn nơi vắng vẻ, nhưng ông coi đó là sự ‘dại’ khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông tìm về làng quê để giữ cho tâm hồn trong sạch, không bị ảnh hưởng bởi những âm mưu nghiệp lớn tại chốn quan trường.

Cuộc sống nhàn của ông được thể hiện qua việc thưởng thức các thú vui đơn giản như ăn măng trúc, đỗ giá, tắm hồ sen và ao. Ông hòa mình vào thiên nhiên, sống hài hòa với môi trường xung quanh.

Rượu cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống nhàn của ông. ‘Rượu đến cội cây ta sẽ uống’, là cách ông thể hiện sự thanh cao và tận hưởng phú quý như giấc chiêm bao.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo nên bức tranh của một nhà nho ở quê nhà, sống đời đạm bạc nhưng cao quý về tâm hồn, yêu thiên nhiên và giữ gìn sự trong sạch của mình.

Hình minh họa (Nguồn: internet)

Hình minh họa (Nguồn: internet)

3. Phân Tích Tác Phẩm ‘Nhàn’ số 2

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trưng Âm, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 và tham gia làm quan dưới triều nhà Mạc. Tác phẩm thơ của ông gồm Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường chứa đựng triết lí, giáo huấn, ca ngợi ý chí cao quý của kẻ sĩ và phê phán những điều tiêu cực trong xã hội đương thời.

Bài thơ ‘Nhàn’ là một phần của tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Mặc dù đề tài bài thơ được đặt ra bởi đời sau, nó là lời tâm sự sâu sắc, thể hiện quan niệm sống nhàn là hài hòa với tự nhiên, giữ được đức tính thanh cao, lòng can đảm cương trực, vượt lên trên những mục tiêu tầm thường. Hai câu thơ đầu tiên phản ánh cuộc sống nhàn nhã và thanh bình của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Quan Trạng sống giữa làng quê như một ‘lão nông tri điền’, hằng ngày làm bạn với công cụ lao động như mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá,… Sử dụng cách diễn đạt số lượng rõ ràng, tất cả thể hiện sự gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của ông.

Câu thơ đưa chúng ta quay về với cuộc sống đơn giản của thời ‘tạc tỉnh canh điền’ (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn) xa xưa. Quan Trạng, mặc dù có vẻ lộng lẫy, quyền lực, bỗng nhiên từ bỏ tất cả để quay về với cuộc sống ‘tự cung tự cấp’ cũng là một sự kiêu hãnh trước thời đại tham lam vinh quang, tiền tài. Kiêu hãnh mà không ngạo nghễ, thậm chí là thuần khiết, giản dị như nông dân: Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hai chữ ‘Thơ thẩn’ phản ánh tài năng diễn đạt của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tâm trạng nhẹ nhàng, thoải mái của con người tìm kiếm sự thoải mái, hưởng thụ trong cuộc sống. Niềm vui hiện hữu trong từng bước đi bình thản, thoải mái. Niềm vui này thống trị cả bản chất của bài thơ, nhẹ nhàng, tinh khôi một cách kỳ lạ. Từ ‘dầu ai vui thú nào’ cũng phản ánh quan điểm kiên định của nhà thơ trước lối sống mà ông đã chọn. ‘Ai’ ở đây là một đại từ phổ biến, được ông sử dụng trong bài thơ này với ý nghĩa rộng lớn, làm tăng sự thú vị khi suy ngẫm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà quan trọng, trở về với quê hương là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là thoát khỏi cuộc đua của thói quen, không bị cuốn hút bởi tiền bạc, địa vị, để tâm hồn được thư thái, tinh khôi. Ông mô tả:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Nhân cách thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Nơi vắng vẻ đối lập với chốn lao xao, ta đối lập với người. Tìm kiếm nơi vắng vẻ không chỉ là thoát khỏi cuộc sống bon chen, mà còn là tìm thấy niềm vui, được sống thoải mái, an nhàn, khác biệt hoàn toàn so với chốn quan trường đầy rủi ro và đắm chìm trong danh lợi. Nơi vắng vẻ là nơi không có cuộc đua vô ích, không có sự cạnh tranh và xô bồ.

Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tươi tắn, mang lại sự thư thái cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn đầy rẫy quyền lực và sự hiện hữu, là nơi đầy nguy hiểm khôn tưởng.

Quan Trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tri thức có trí tuệ sáng tạo. Sự sáng tạo của ông không chỉ là trong việc chọn lựa cuộc sống: Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, nhưng còn trong cách ông biểu đạt ý nghĩa một cách hài hước và sâu sắc. Trí tuệ của ông thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ cuối cùng:

Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Quan Trạng khẳng định một lần nữa quyết tâm sống nhàn của mình. Cuộc sống nhàn này là kết quả của một nhân cách và trí tuệ đặc biệt. Trí tuệ đưa ra nhận thức rằng danh lợi, giàu sang, quyền lực chỉ là những ảo ảnh. Trí tuệ làm cho nhân cách trở nên vững vàng hơn để từ bỏ chốn đầy đau khổ và tìm đến với nơi thanh bình vắng vẻ, tinh tế để nuôi dưỡng tâm hồn, giữ vững đạo đức lương thiện.

Nhàn là một đề tài phổ biến trong thơ văn thời trung đại. Sống nhàn đồng nghĩa với việc sống hòa hợp với tự nhiên, tìm kiếm thoải mái cho tâm hồn, kéo dài tuổi thọ. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là để tránh khỏi khó khăn, vất vả về thể chất, hay để lánh xa xã hội, mà là để sống hòa mình với thiên nhiên, để tìm thấy sự tự do, thoải mái, không bị ràng buộc, áp đặt bởi bất kỳ quy luật nào.

Bài thơ ‘Nhàn’ thể hiện chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm thông qua góc nhìn của cuộc sống nhàn nhã. Bức tranh giản dị, mộc mạc vẽ lên vẻ đẹp thanh cao của nhân cách và tâm hồn tuyệt vời của một nhà thơ lừng danh.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)

Hình minh họa (Nguồn: Internet)

4. Bài văn phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ số 5

 

Thơ là ngôn ngữ của tâm hồn, nó chứa đựng cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tác phẩm ‘Nhàn’ đã chia sẻ những triết lí và quan niệm về con người, thời đại, mang lại cho độc giả những trải nghiệm tư duy và cảm nhận.

Thơ như làng ngôn ngữ, nơi mà ông tìm về sự bình yên, giản dị giữa thế giới hối hả. Cuộc sống thôn quê hiện lên với hình ảnh của ‘mài nhàn câu vắng’, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm tận hưởng sự thanh thản và quên hết những phiền muộn của cuộc sống thị thành.

Thơ thẩn như bức tranh mô tả chân dung ông giữa chốn thôn quê, với dáng điệu ung dung, thu thái của một nhà thơ. Thanh thản, tự tại là tâm thế con người đã xác định được lẽ sống của mình, rời xa cõi trần tục, giữ vững tinh thần tự tại.

Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ miêu tả về cuộc sống vật chất mà còn chú trọng đến cuộc sống tinh thần. Đời sống đơn sơ, chất phác với ‘măng trúc’, ‘giá’, và những bến nước thôn quê bình dị, là những nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và thấu hiểu tâm hồn.

‘Nhàn’ không chỉ là cách sống mà còn là triết lí nhân sinh sâu sắc. Cuộc sống nhàn dật và tự tại là hành trình tìm kiếm ý nghĩa thực sự, vượt lên trên hóa học phù phiếm. Nguyễn Bỉnh Khiêm như một thi nhân đau đớn, phê phán thế thái nhân tình và tìm đến sự hòa giải nội tâm bằng lối sống giản dị, tự do.

Thi nhân đã chứng kiến những biến động của cuộc đời, qua bao thăng trầm để đạt được tinh thần nhàn dật và tự tại. Bằng những đường điệu tinh tế, ông nhấn mạnh về vẻ đẹp của thực tại và lòng trung hiếu, chối bỏ những giá trị phù du và vụ lợi.

‘Nhàn’ là một tác phẩm giữa đời suy tư về cuộc sống, là đề tài sâu sắc mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm. Không chỉ là một bức tranh về thôn quê yên bình, ‘Nhàn’ là cả một triết lí về tình người và giá trị đích thực của cuộc sống.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)

Ảnh minh họa (Nguồn: Mạng)

Phân Tích Tác Phẩm ‘Nhàn’ – Phần 4

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn sâu rộng. Khi nhắc đến ông, người ta liên tưởng đến việc ông từng dũng sĩ đối mặt với án tử vì chống lại bất công. Tuy thất bại, nhưng ông đã chấp nhận trở về quê nhà. Những học trò của ông, được biết đến với tên gọi Tuyết Giang Phu Tử, đều là những người nổi tiếng. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là người học vấn uyên thâm mà còn là nhà thơ lớn của dân tộc.

Thơ của ông mang đậm triết lí giáo huấn, tôn vinh phẩm chất của kẻ sĩ, thể hiện sự thanh nhàn và thư thái, đồng thời chỉ trích những vấn đề xã hội. Trong tập thơ Bạch Vân am thi tập, viết bằng chữ Hán, và Bạch Vân quốc ngữ thi, viết bằng chữ Nôm, ‘Nhàn’ là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ này ca ngợi niềm vui trong cuộc sống thanh nhàn, thể hiện vẻ đẹp chân chính và mộc mạc của làn quê.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Thu ăn năng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đầu thể hiện cuộc sống nhàn nhã:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào…..”

Ở đây, tác giả mô tả hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi. Từ ‘một’ và ‘thơ thẩn’ nhấn mạnh cuộc sống tao nhã và gần gũi. Điều này làm nổi bật tư thái thoải mái và hạnh phúc của ông. Câu thứ hai mô tả hình ảnh một người ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai.

Tác giả thể hiện thời kỳ nhàn rỗi nhất của Nguyễn Bỉnh Khiêm là khi ông quyết định rời bỏ ‘chốn lao xao’ và trở về quê hương. ‘Vui thú nào’ là chủ đề của bài thơ, đề cập đến cuộc sống thanh nhàn dù có những khó khăn và thách thức. Câu thơ đã giới thiệu đề tài và tư thái thoải mái của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

“….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao sao……”

Câu thứ ba và thứ tư miêu tả cảnh nhàn và sử dụng các từ đối lập như ‘ta’ _ ‘người’, ‘dại’ _ ‘khôn’, ‘nơi vắng vẻ’ _ ‘chốn lao xao’. Tác giả thể hiện quan niệm sống độc lập và trái ngược giữa nhân vật trữ tình và những người theo đuổi sự phồn thịnh trong xã hội.

Tác giả không xem lối sống của mình là tránh trách nhiệm hay xa đời. Thực tế, cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh thời kỳ khó khăn, khi ông cố gắng giúp vua làm cho trăm dân hạnh phúc. Tuy nhiên, triều đình tranh giành quyền lực và nhân dân đói khổ, nên ông quyết định rời bỏ ‘chốn lao xao’ để bảo vệ tâm hồn thanh cao của mình.

“ ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………”

Câu thứ năm và thứ sáu sử dụng biện pháp liệt kê để mô tả thức ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Cuộc sống sinh hoạt của người dân dã được thể hiện qua hình ảnh ‘xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao’. Tác giả muốn truyền đạt sự hòa hợp với thiên nhiên, tận hưởng vẻ đẹp của đất trời mà không cần tranh giành hay bon chen.

Bài thơ ‘Nhàn’ là một tác phẩm xuất sắc của Văn học trung đại Việt Nam, thể hiện quan niệm sống thanh nhàn, yêu thiên nhiên, và giữ gìn tâm hồn cao thượng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)

Hình minh họa (Nguồn: Internet)

6. Phân Tích Tác Phẩm ‘Nhàn’ số 7

 

Hình minh họa (Nguồn: internet)

Minh họa (Nguồn: internet)

7. Phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ số 6

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) trải qua một thế kỷ đầy biến động trong lịch sử phong kiến Việt Nam: thời kỳ Lê – Mạc nổi lên, Trịnh – Nguyễn đối đầu. Trong những biến cố làm lung lay những cơ bản của chế độ phong kiến, ông không chỉ lộ rõ những thế lực tối ác gây rối cuộc sống nhân dân, mà còn bảo vệ chân truyền cho những giá trị đạo đức tốt lành qua những bài thơ sâu sắc về nhân tình, với tư duy sâu sắc của một đại nho.

Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ thể hiện quan điểm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt lên trên sự hèn nhát và độc ác của cuộc sống vì danh lợi. Nhà thơ đã thường xuyên đứng ở quan điểm đạo đức nho giáo để thể hiện quan điểm sống của mình. Những suy nghĩ đó kết nối với quan điểm đạo lý của nhân dân, thể hiện một quan điểm nhân sinh lành mạnh giữa thế giới hỗn loạn. Nhàn là con đường quen thuộc của những nhà nho trước thực tế, tránh né cuộc sống xô bồ, tìm niềm vui trong thiên nhiên, giữ cho tâm hồn mình trong sạch.

Hành trình tận hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong nguyên tắc đó, quay trở lại với nhân dân, đối đầu với những người tầm thường bằng cách diễn đạt một cách tự tin và sâu sắc. Cuộc sống nhàn nhã hiện lên với nhiều điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay từ cái nhìn đầu tiên, độc giả sẽ thấy một Nguyễn Bỉnh Khiêm giản dị giữa cuộc sống bận rộn, giống như một nông dân trung thực. Tuy nhiên, đó chỉ là một lựa chọn thưởng thức niềm vui nhàn nhã quý phái của nhà nho, quay về cuộc sống ‘ngư, tiều, canh, mục’ như một biện pháp đối lập mạnh mẽ với những loại niềm vui khác, để khẳng định ý nghĩa tuyệt vời của cuộc sống tràn đầy giá trị từ thế giới nông thôn này!

Dáng vẻ thơ thẩn được miêu tả trong câu thơ độc đáo, mang lại vẻ thanh thoát tự do của nhà thơ trong cuộc sống nhàn nhã thực sự. Thực tế, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một phần trang trí cho cái thơ thẩn khác biệt của nhà thơ.

Những công cụ lao động quen thuộc của người dân trở thành biểu tượng của cuộc sống không bị áp đặt bởi những lo lắng hằng ngày. Đằng sau những mô tả của nhà thơ, chúng ta nhận thức được những ý tưởng của ông không chia rẽ khỏi quan điểm nhân dân về một con người lựa chọn cuộc sống ẩn dật làm lẽ sống của mình.

Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những giá trị cao quý, một triết lí nhân sinh mạnh mẽ. Điều này cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định thái độ sống khác biệt, đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thơ tạo thành một phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ và những ai, những niềm vui nào vượt quá giới hạn nhận thức cũng như vị trí trong cuộc sống. Phép đối cực tạo nên hai chiều cực: một là nhà thơ tự xưng là Ta một cách kiêu căng, một là Người; một là dại của Ta, một là khôn của người; một nơi vắng vẻ và một nơi đầy lo lắng.

Đằng sau những đối cực đó là những tư duy tạo thành phản đề khẳng định thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính nhờ vào sự đối lập này, nhà thơ đã cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn nhã:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác biệt với việc thưởng thức vật chất trong thế giới vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trải qua những ưu đãi của một tự nhiên phong phú với tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng hít thở tinh khí của đất trời để làm sạch tâm hồn khỏi những rắc rối cá nhân.

Cuộc sống này mang đậm dấu ấn của sự tránh né cuộc sống xô bồ, là biểu tượng của quan niệm ‘độc thiện kỳ thân’ của những nhà nho. Đồng thời, nó còn gần gũi với triết lý ‘vô vi’ của đạo Lão, và ‘thoát tục’ của đạo Phật. Qua những lời diễn đạt này, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà mình với tự nhiên một cách lịch lãm bằng tất cả sự trong trắng của trái tim mình.

Hơn nữa, những hình ảnh của măng trúc, giá, hồ sen còn mang theo ý nghĩa biểu tượng liên quan đến phẩm chất cao quý của người quân tử, sống một cách đẹp đẽ với bản chất của mình. Sự hòa mình với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử sống đúng với văn hóa của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được thể hiện đầy đủ thông qua sự khẳng định:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Sử dụng một câu chuyện như một phương tiện tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bày tỏ thái độ sống mạnh mẽ với danh lợi và phú quý. Quan điểm này, mặc dù có phần thiên lệch theo đạo Lão – Trang, nhưng trong bối cảnh thời đại của nhà thơ, nó thể hiện ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những người chạy theo danh lợi và phú quý, mà ông căm ghét và chỉ trích trong bài thơ ‘Tăng thử’ của mình, là cuộc sống của những kẻ ác tâm độc ác, lợi dụng lẫn nhau để sống. Chúng là những chú chuột lớn gây hại cho nhân dân, mà ông không khoan nhượng trong việc chỉ trích trong bài thơ của mình. Do đó, quan điểm về việc xem xét phú quý như một giấc mơ là cách nhà thơ chọn để sống gần gũi và chia sẻ với nhân dân.

Cuộc sống đơn giản nhưng cao quý của người dân đáng quý và tôn trọng, vì nó mang lại sự hài lòng và duy trì nhân cách không bị làm mờ trong xã hội theo đuổi quyền lực và tiền bạc. Nền triết lý cơ bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm liên quan đến quan điểm sống lành mạnh và tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn phản ánh toàn bộ tư tưởng, cảm xúc, và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện một nhân cách đích thực của người đại thụ trở về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối đầu mạnh mẽ với một xã hội phong kiến trên con đường tiêu cực suy thoái. Bài thơ trở thành một bản kinh nghiệm sống, một minh chứng cho sự kiên cường của một con người chân chính.

Hình minh họa (Nguồn trên internet)

Minh họa (Nguồn từ internet)

8. Phân Tích Tác Phẩm ‘Nhàn’ số 9

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm, một tri thức nho sĩ, luôn khát khao hiến dâng tài năng cho đất nước. Sinh ra trong thời kỳ loạn lạc, ông chỉ làm quan tám năm rồi rút lui về ẩn cư. Bài thơ số 73, hay còn gọi là Nhàn, trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi, là một tác phẩm nổi bật thể hiện triết lí và quan niệm sống của ông.

Nhàn là một thái độ sống, là cách diễn đạt quan niệm đạo đức của những nhà nho ẩn dật. Đồng thời, đây cũng là chủ đề phổ biến trong văn học Trung đại. Nhàn biểu hiện lối sống hòa hợp với tự nhiên, tuân theo quy luật tự nhiên. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống trong môi trường xã hội rối ren, nhà thơ không có điều kiện thực hiện ước mơ và tài năng của mình (chỉ làm quan tám năm, mười tám lần dâng sớ chém đầu lộng thần nhưng không được chấp nhận), việc rời xa những vụng trộm để sống ‘nhàn’ và bảo tồn phẩm chất đạo đức là một lựa chọn tích cực.

Lối sống nhàn của ông trước hết thể hiện trong cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên: ‘Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.’ Câu thơ sử dụng kỹ thuật liệt kê, với nhịp thơ 2/2/3, thể hiện nhịp sống đều đặn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cuộc sống hàng ngày của ông đơn giản chỉ là: mai – cày đất, cuốc – xới đất và cần câu – câu cá. Đây là cuộc sống của những người lao động bình dân trong làng quê.

Ông kết hợp biện pháp diễn ngôn với số từ ‘một’ – số ít, thể hiện cuộc sống giản đơn, không tư lợi, bon chen, chỉ cần những dụng cụ tối thiểu để phục vụ nhu cầu cá nhân. Cách ngắt nhịp 2/2/3 còn thể hiện lối sống thong thả, ông luôn giữ tâm thế ung dung, tự tại, thoải mái.

Trong câu thứ hai, ông trực tiếp bày tỏ quan điểm sống và tâm trạng cá nhân: ‘Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao.’ Quan niệm sống được phát biểu rõ ràng, cho dù người khác chọn những niềm vui khác (cuộc sống thịnh vượng, tiện nghi, vinh hoa phú quý), tác giả vẫn kiên trì với lựa chọn của mình. Tâm trạng ‘thơ thẩn’ thể hiện mọi trạng thái và tâm lý của tác giả. ‘Thơ thẩn’ là sự thanh thản, thoải mái, hoàn toàn hài lòng. Đây là lối sống mà ông chọn và ông hoàn toàn hài lòng, hài lòng với cuộc sống nông thôn bình yên.

Lối sống nhàn của ông còn thể hiện qua cuộc sống giản dị mà cao quý. Bữa ăn, sinh hoạt hàng ngày đơn giản mà hòa nhã: ‘Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.’ Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã vẽ lên những đặc điểm đặc trưng nhất của từng mùa. Bức tranh còn thể hiện sự chu kỳ sống, đều đặn của Trạng Trình.

Ông hoàn toàn tự do, thoải mái khi đồng hành với nhịp sống của bản thân và thiên nhiên xung quanh. Sự hòa quyện này không chỉ trong việc ăn uống mà còn trong việc tắm rửa. Từ ‘ăn’ và ‘tắm’ lặp lại hai lần, thể hiện rằng những nhu cầu sống cơ bản của con người đều được đáp ứng đầy đủ, tùy thuộc vào mùa vụ. Cuộc sống đơn giản nhưng không khắc khổ, mà lại cao quý, mang lại sự tự do trong cuộc sống.

Bài thơ cũng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quý, vượt lên trên vật chất và danh lợi thông thường: ‘Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao.’ Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo ra sự đối lập giữa hai không gian sống và hai cách ứng xử. Nơi vắng vẻ là nơi ít người đi qua, không phải cạnh tranh, cũng không cần phải chen chúc. Đó là nơi tĩnh lặng và thanh bình, nơi con người có thể nghỉ ngơi và sống cuộc sống bình yên. Trái lại, ‘chốn lao xao’ là nơi đô thị sầm uất, nơi con người phải cạnh tranh, giành giật, phải vật lộn trong cuộc sống. Người khôn tiếp tục sống cuộc sống đua chen, tranh giành sẽ đánh mất phẩm chất của mình. Khôn mà trở nên dại. Trong nhiều bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói về sự quan niệm ‘dại – khôn’: ‘Khôn mà hiểm độc là khôn dại/ Dại mà hiền lành là dại khôn.’

Quan niệm sống đặc biệt của ông còn được thể hiện rõ qua hai câu kết: ‘Rượu đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.’ Sử dụng điển tích Thuần Vu Phần nằm mộng dưới gốc cây hòe, ông nhận ra rằng công danh phú quý chỉ là giấc mơ thoảng qua. Công danh phú quý không phải là tất cả. Ông chọn sử dụng rượu để say, nhưng để tỉnh dậy và nhận ra chân lý của cuộc sống, quy luật tự nhiên trong cuộc sống. Công danh và phú quý chỉ là giấc mộng thoảng qua. Quan điểm này cho thấy sự sáng tạo và hiểu biết sâu sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhìn nhận sự biến đổi của thế giới bằng cái nhìn bình thản.

Bài thơ kết hợp tốt giữa yếu tố văn hóa đường luật và yếu tố Việt hóa: ngôn từ phong cách đường luật với sự sử dụng nhiều điển tích; hình ảnh ước lệ của bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Bài thơ tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc thơ Đường. Tuy nhiên, cũng có sự kết hợp hài hòa với yếu tố Việt hóa: sử dụng chữ Nôm, hình ảnh dân dụ, quen thuộc và đơn giản.

Qua bài thơ Nhàn, ta cảm nhận được lối sống và quan niệm sống tươi đẹp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm là lời khẳng định sâu sắc về lối sống nhàn nhã, hòa hợp với tự nhiên, ông giữ nguyên bản tính cao quý, vượt lên trên vật chất và danh lợi phổ quát.

Hình minh họa (Nguồn trực tuyến)

Hình minh họa (Nguồn trực tuyến)

9. Bài văn phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ số 8

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại cho dân tộc hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm đó là: Bạch vân am thi tập (chữ Hán khoảng 700 bài) và Bạch vân quốc ngữ thi (chữ Nôm khoảng 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ si, thú thanh nhàn đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là bài thơ Nôm trích từ Bạch vân quốc ngữ thi.

Một mai, môt cuốc, môt cần câu

Thơ thẩn dầu ai, vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẻ uống,

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Bài Nhàn trong Bạch vân quốc ngữ thi thuộc về chủ đề triết lí xã hội, mà tập trung nhất là triết lí Nhàn có người đã từng cho rằng tư tưởng Nhàn, triết lí Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung và Bạch vân quốc ngữ thi nói riêng. Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một cứu cánh mà là một phương thức tư duy một triết lí. Cho nên Nhàn là khái niệm chữ không phải là tâm trạng.

Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực. Yếu tố tích cực của chữ Nhàn là ở chỗ: Nhàn là sông theo lẽ tự nhiên, sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản. Chúng ta sẽ thấy rất rõ những điều trên qua việc đi sâu phân tích bài thơ Nhàn của ông trong Bạch vân quốc ngữ thi.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng liên tiếp số từ một nhằm mục đích nhấn mạnh hoàn cảnh sống của ông khi cáo quan về quê. Với những dụng cụ quen thuộc, một mai, một cuốc, một cần câu và có thể là cả một con người, một cuộc đời ở đó. Số từ một biểu hiện sự cô đơn, một mình của Nguyễn Bỉnh Khiêm chốn quê nghèo, ông làm bạn cùng với những vật dụng quen thuộc của nhà nông là mai đào đất, xắn đất, cuốc lật đất, đi kèm phía sau là một cần câu để nhằm chỉ ra rằng sau những lúc làm lụng vất vả, ông vẫn giữ được các thú chơi tao nhã, thanh đạm của người Việt Nam đó là đi câu cá.

Số từ một thể hiện sự cô đơn, trong một câu thơ nhà thơ đã sử dụng tơi ba số từ một nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, trống vắng của một con người mang đầy chí lớn đang phải sống cuộc đời ẩn dật. Nhưng đứng sau ba số từ một cũng lại là một loạt các danh từ mai, cuối, cần câu, chắc gì sau ba từ một đứng trước… không có một từ một đứng sau. Chắc gì sau ba danh từ đó không có thểm một danh từ ẩn sau đó.

Đó là một cuộc đời, một con người chính các công việc của nhà nông ấy, tuy vất vả nhưng lại rất ấm áp và gần gũi. Để rồi chỉ có gần gũi, vui bên thú chơi câu cá tao nhã, thanh đạnt mới làm cho nhân vật trữ tình của chúng ta phải thơ thẩn mà không cần bận tâm đến người khác nói gì, nghĩ gì, làm gì. Chỉ cần những điều khiển ta được vui vẻ, được hoà hợp được. Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Nhịp thơ của câu đầu 2/2/3 thể hiện sự khẳng định, quyết tâm có thể cả sự thách thức. Một mai / một cuốc / một cần câu.

Nhịp thơ đã tạo cho câu thơ có sức chuyển mạnh mẽ, không chỉ là lời nói khẳng định thông thường những gì mình trải qua mà táe giả qua đó muốn khẳng định sự quyết tâm vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc đời đầy xô bồ, đổi thay. Và từ đó thấy rằng nhân vật trữ tình rất yêu quí, gắn bó thanh đạm mà gần gũi, ấm áp tình người. Cũng chính vì thế mà có sự chuyển nhịp ở câu sau: Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nhịp thơ 4/3 là sự chậm lại của cảm xúc tâm trạng và nó đem lại một hơi ấm, niềm vui cho nhân vật trữ tình đến đây đã tìm thấy phương thức sống của cuộc đời mình. Với ước muốn sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản, yên vui, vì thế nhà thơ của chúng ta đã rời xa chốn lao xao để về nơi vắng vẻ.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người không, người đến chốn lao xao.

Tự nhận mình là dại, tác giả dại vì đã rời xa chốn phồn hoa đô hội, lấp lánh trở về sống ẩn nấp, vất vả nơi vùng quê nghèo. Nhưng có phải vì thê mà dại chăng? Và thế nào là khôn, không là đến sống ở nơi sung sướng, đầy đủ lụa là gấm vóc, ấm êm, cung phụng lẽ vì thế mà mới không. Và khôn, dại như thê nào mà tìm đến ở chôn lao xao và nơi vắng vẻ.

Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực. Đặt câu thơ trong hoàn cảnh sống của tác giả, chúng ta sẽ thấy quan niệm về nơi vắng vẻ và chôn lao xao hay quan niệm dại và khôn. Nơi vắng vẻ ở đây chính là cuộc sống đạm bạc với thôn quê còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Chỉ có người dám coi thường danh lợi, coi thường vật chất, coi của cải chỉ là phù phiếm mới có thể dại mà đến ở nơi vắng vẻ.

Còn chốn lao xao chính là nơi tấp nập ngựa xe, nơi sung sướng và đầy đủ, là cuộc sống hoàn toàn đối lập với nơi vắng vẻ và nơi đó chỉ đành cho những ai biết khôn, những ai coi danh lợi, vật chất là cuộc sống thì mới sống và muốn sống ở đó. Tác giả đã sử dụng hai từ láy vắng vẻ và lao xao để miêu tả hai chốn ở khác nhau. Vắng vẻ từ láy tạo nên đậm nét sức bình dị, yên bình của thôn quê.

Còn từ láy lao xao nó như có cả tiếng reo vui, tiếng náo nhiệt và tấp nập của chốn đô thành. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vè là thôn quê, yên lành, còn chốn lao xao là vùng kinh đô đầy náo nhiệt. Nhưng còn không là thế nào và dại là ra sao? Chon nơi vắng vẻ là để tránh xa cuộc sống xô bồ của cuộc đời đầy bon chen, toan tính và không ít hiểm nguy. Và khi tránh xa những điều đó thì tác giả dại hay khôn.

Còn khôn sống ở nơi đô thị tránh xa sự yên bình, thanh sạch khi đó là khôn hay dại khi bước chân vào chốn xô bồ. Nguyễn Binh Khiêm đã dùng biện pháp nghệ thuật sóng đôi ở hai câu thơ này để diễn tả sự đối lập, tương phản, thậm chí là trái ngược hoàn toàn tới xung khắc của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự lựa chọn.

Ta dại / ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn / người đến chốn lao xao.

Ta đối với người, dại đối với khôn, ta tìm đối với người đến (thể hiện sự lựa chọn qua hai từ tìm và đển) nơi vắng vẻ đối với chốn lao xao. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Bởi nghệ thuật đối, bởi ý nghĩa tư tưởng của hai câu muốn nói đến. Hai câu thơ đối xứng nhau rất chuẩn cả về từ và cả về dấu thanh tạo nên sự khác biệt và đối lập nhằm khẳng định một lần nữa cách sống và cách lựa chọn của tác giả? Hai câu tiếp theo miêu tả cuộc sống của Nguyễn Bình Khiêm nơi thôn quê nghèo thanh đạm với những sản vật riêng chỉ có nơi thôn quê.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Mặc dù sống ở nơi thôn quê còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng ở đó lại cos các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn rất tầm thường nhưng lại ngon vô cùng. Chỉ có măng trúc và giá thôi, mà nào thức nấy, những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Thế nhưng khi ăn chúng ta sơ cảm nhận được vị ngon của nó nhờ vào sự hoà hợp, cảm thông của tấm lòng với tấm lòng. Bởi vì đã không ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng:

Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng.

Hay:

Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách

Qua hai câu thơ thứ 5 và 6 này, chúng ta thấy cuộc sống của tác giả nơi thôn quê thaajt đạm bạc mà thanh nhàn. Đạm bạc hỏi món ăn chỉ măng và giá nhưng thanh nhàn, hoà hợp với thiên nhiên. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Chỉ có vùng nông thôn người ta nói có thể được vùng vẫy, thoải mãi thả hồn mình vào trong thiên nhiên hoà mình với thiên nhiên để cảm hết niềm hạnh phúc, thú vui lạc quan ở đời.

Nếu mới đọc qua chúng ta chỉ thấy đó là hai câu thơ tả cuộc sống nơi thôn quê của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng chiều sâu trong đó lý tưởng sống cùa ông, là khát vọng được sống hoà hợp với thiên nhiên. Được ăn những món ăn mà chỉ do thiên nhiên hoà quyện với thiên nhiên mới khiến ta mở rộng lòng mình, vùng vẫy ôm thiên nhiên vào lòng và cũng chính thiên nhiên ôm ta vào lòng nâng dậy sức sống và khơi mát tâm hồn.

Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn ta thanh thản, ấm áp mà thôi. Là nếu cần đánh đổi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ sẵn sàng đánh đối phú quí để được tận hưởng cuộc sống này, tận hưởng các nhàn. Để rẻ công danh muốn được nhàn. Dường như bất kì thi nhân nào cũng không tránh được một thú vui, không thể thiếu của cuộc đời đó là rượu và Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tránh khỏi niềm đam mê với các thú vui ấy:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Đây là hai câu thơ có lấy điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say và nằm dưới gốc cây hoè ngủ. Ông ta mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh phú quí, vinh huấn. Nhưng khi tỉnh dậy thì đó chỉ là giấc mộng, thấy cành hoè phía nam chỉ có một tấc kiến mà phơi. Điển tích này để chỉ phú quí chỉ là giấc chiêm bao. Chính vì quan điểm này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không màng đến danh lợi bởi danh lợi, phú quí chỉ là phù phiếm và chỉ như một giấc mộng rồi sẽ qua đi.

Để rẻ công danh muốn được nhàn.

Hay:

Thấy dặm thanh vân lại bước chen

Được nhàn ta sá dường thân nhàn.

Chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bình Khiêm đôi lập với tất cả chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn than chức không phải là nhàn tâm. Dù nhàn nhưng vẫn lo âu việc nước việc đời. Hai câu kết tác giả muốn khẳng định rằng tiền bạc của cải chỉ là phù phiếm, nó sẽ nhanh chóng tan biến theo bước đường thời gian, vì vậy mà phương châm sống đừng chỉ lúc nào cũng mong về tiền tài, danh vọng.

Tuy rằng chữ nhàn có những hạn chế như: nhiều yếu tố nhàn rỗi, nhàn tâm, yên phận khá đậm nét. Mà đặc biệt một nhà nho ưu thời mẫu tục như Nguyễn Bỉnh Khiêm mà lại chủ trương nhàn tâm, chủ trương vô sự ngáy pho pho trước cảnh đất nước loạn lạc, nhân dân cực khổ lầm than. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm hi vọng với những vần thơ triết lí này của mình có thể giữ trọn được tâm hồn và nhân cách để cuộc sống con người được hài hoà, hợp với lẽ của tự nhiên và xã hội cũng đi đến… Nhàn là một triết lí sống để bảo toàn nhân phẩm trước sự đua chen danh lợi, trước sự băng hoại về đạo đức:

Có thuở được thời mèo đuổi chuột

Đến khi thất thế kiến tha bò.

Và:

Hoa càng khoe nở hoa càng rữa

Nước chứa cho đầy nước ắt vơi.

Toàn bộ bài thơ nhàn là một lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là triết lí sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Binh Khiêm. Tuy có lúc nó có mang yếu tốt tiêu cực nhưng nó lại là triết lí sống giúp con người ta sống đẹp hơn, đúng hơn với đời.

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

10. Phân tích tác phẩm ‘Nhàn’ số 10

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là một nhà thơ lớn của dân tộc, sống ẩn dật nhưng có đóng góp cho triều đình nhà Mạc. Bài thơ ‘Nhàn’ thể hiện quan niệm sống nhàn và vẻ đẹp nhân cách thanh cao của ông. Thơ ông nói lên tình yêu quê hương, sự giản dị và ung dung tự tại trong cuộc sống.

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Hình minh họa (Nguồn trực tuyến)