Nỗi trăn trở lớn nhất của mỗi người chúng ta là làm thế nào để giải quyết vấn đề sinh tử, bởi lẽ khi còn sinh tử, chúng ta sẽ mãi chìm đắm trong vòng luân hồi lục đạo, chịu đựng vô vàn khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta không ngừng tái sinh trong những bào thai đầy ô uế, nhơ nhớp, thậm chí có thể là bào thai của loài vật. Vòng luân chuyển vô tận này thật đáng kinh sợ.
Sinh tử còn làm đảo lộn các giá trị đạo đức, gây ra những hành vi trái luân thường như loạn luân, giết hại lẫn nhau mà không nhận ra rằng ta đang làm tổn thương chính người thân của mình qua nhiều kiếp sống.
Vì sinh tử, ta không chỉ tự gây khổ cho bản thân mà còn làm khổ những người xung quanh, như vợ chồng, con cái, cha mẹ, v.v., kéo dài qua vô lượng kiếp.
Ôi! Nghĩ đến sinh tử thật đáng sợ, vậy tại sao chúng ta không giác ngộ và tu hành? Tại sao chúng ta không khẩn trương? Chúng ta còn chờ đợi đến bao giờ?
May mắn thay, chúng ta được làm người và sớm gặp được Phật pháp. Đặc biệt hơn, chúng ta gặp được Pháp môn Tịnh độ, nương nhờ vào tha lực bản nguyện của Phật A Di Đà để có thể liễu sinh thoát tử, vãng sinh về thế giới Cực lạc.
Để luôn thức tỉnh và tu hành tinh tấn, chúng ta phải luôn suy niệm về sự vô thường, sự trống rỗng và ngắn ngủi của kiếp người.
Khi nói về việc được làm người, được gặp Phật pháp, thì điều đó khó hay dễ? Thật vô cùng khó. Như chúng ta thường nghe: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, nghĩa là thân người khó được, Phật pháp khó nghe.
Thật khó có được mà hôm nay chúng ta đều có được cả.
Có lẽ từ vô lượng kiếp, chúng ta đã tạo phước đức nên hôm nay mới có được quả báo tốt đẹp như vậy. Nếu không, chúng ta khó mà gặp được.
Vì vậy, chúng ta phải luôn suy niệm về sự vô thường, trống rỗng và mỏng manh của cuộc đời để tinh tấn tu hành. Nếu trong thời gian ngắn ngủi này chúng ta không tu sửa, thật uổng phí cả một kiếp người.
Đức Phật dạy: “Mỗi khi chúng ta đánh mất thân này, thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Giống như câu chuyện con rùa mù sống dưới đáy biển sâu, ngàn năm mới trồi lên một lần, gặp một khúc gỗ có lỗ và chui vào. Phật hỏi các Tỳ Kheo, việc con rùa mù chui được vào lỗ gỗ khó hay dễ? Các Tỳ Kheo đáp: “Kính bạch Thế Tôn, thật vô cùng khó”. Phật dạy: “Được làm thân người còn khó hơn gấp bội lần con rùa mù chui vào lỗ gỗ”.
Có vị Tổ dạy rất độc đáo: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan”, nghĩa là ngàn năm cây sắt nở hoa còn dễ hơn, một khi đánh mất thân người, vạn kiếp khó tìm lại.
Như chúng ta biết, cây sắt có bao giờ nở hoa không? Chắc chắn là không. Vậy đó, được làm thân người còn khó hơn cả việc cây sắt nở hoa.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có đoạn ghi: “Đức Phật lấy một ít đất để lên móng tay, rồi hỏi Ca Diếp Bồ Tát:
– Đất ở mười phương thế giới nhiều hay đất ở móng tay ta nhiều?
– Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay không thể sánh bằng đất ở mười phương thế giới.
– Đúng vậy, này thiện nam tử! Người chết rồi trở lại làm người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, sinh ra ở trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải thoát, có thể nhập Niết bàn, được như vậy thật hy hữu, như số lượng đất trên móng tay”.
Qua những dẫn chứng trên, chư Phật, chư Tổ luôn nhắc nhở chúng ta rằng có được thân người thật vô cùng khó. Khi đã có rồi, chúng ta phải biết quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó để tu hành, chứ không nên buông lung để rồi đánh mất, vạn kiếp khó tìm lại.
Chúng ta phải luôn thức tỉnh rằng cái chết luôn cận kề bên ta. Thân này thật mỏng manh, giả hợp, chỉ cần hít vào mà không thở ra, ta đã qua đời khác rồi, như bông hoa sớm nở tối tàn, có gì đáng vui đâu. Vì vậy, một hôm, Đức Phật hỏi các Tỳ Kheo: “Mạng người sống được bao lâu?”.
– Có vị trả lời rằng mạng sống con người chỉ khoảng vài ngày, bị Phật quở trách là chưa hiểu đạo, chỉ hiểu được cái da của Phật pháp.
– Có vị trả lời rằng mạng sống con người chỉ khoảng một bữa ăn, bị Phật quở trách là mới hiểu được cái xương của Phật pháp.
– Có vị trả lời rằng mạng sống con người chỉ trong một hơi thở. Vị này được Phật ca ngợi và tán thán là đã hiểu tận xương tủy của Phật pháp.
Vì thế, Đức Phật thường dạy: “Tất cả vạn vật hiện hữu trên vũ trụ này đều là giả tạm vô thường, không có gì bền chắc, chỉ có tu nhân tích đức mới là cái thật để chúng ta mang theo”.
Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng vạn ban đô thị giả, nhân sinh đạo đức quả duy chân”, nghĩa là: tất cả vạn vật trên thế gian này đều vô thường, chỉ có đạo đức mới trường tồn vĩnh cửu.
Chúng ta biết thân này là vô thường, là giả tạm, không có cái gì là ta cả, nghĩ như vậy chúng ta mới quên mình tu được. Nếu không, chúng ta cứ cho thân này là thường còn, cuộc đời này là đẹp đẽ, chấp cái ta này là thật, thì sẽ mãi tham đắm vào những thú vui phù du, suốt đời làm nô lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ mà không hay biết, thật khổ đau vô cùng.
Để đối trị những dục vọng tham muốn ở đời, Đức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là phải luôn quán thân này là bất tịnh, là hôi thối.
Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các Tỳ Kheo, hãy quán thân này từ gót chân đến đỉnh đầu là một bọc da chứa đựng toàn những thứ bất tịnh hôi thối như tóc, lông, móng, máu, mủ, đờm, nước miếng, nước tiểu, phân, v.v…”.
Đức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng của thân thể này, để chúng ta khỏi mê lầm về nó. Hằng ngày, trong thân thể chúng ta có chín lỗ thường chảy ra những thứ bất tịnh hôi tanh. Các vị Tổ ví chín lỗ này chảy ra những thứ hôi thối gấp bội lần mùi hôi ở cống rãnh thành phố. Chín lỗ đó là gì? Hai tai chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra nước miếng, hai mắt chảy ra ghèn, đường tiểu tiện chảy ra nước tiểu, đường đại tiện thải phân.
Khi đi ngang qua những cống rãnh ở thành phố, chúng ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm? Thật vô cùng thối. Cống rãnh đã thối như vậy, chư Tổ ví thân thể chúng ta hàng ngày chảy ra những thứ hôi thối gấp bội lần mùi hôi ở cống rãnh.
Chúng ta tu hành phải thấy được thật tướng của thân thể này là vô thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi nhận chân được thực tướng rồi, chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà chỉ mượn nó làm phương tiện để tu tập.
Cho nên chúng ta không khổ vì nó. Còn với những người không nhận chân được thực tướng của thân thể này là bất tịnh, là vô thường, là giả có, thì cứ mải mê làm nô lệ cho cái thân này. Họ cho thân này là có thật, là trong sạch, nên vỗ béo, ăn ngon, mặc đẹp, đánh phấn son, chải chuốt cho nó, mà không ngờ họ đang đánh phấn son, vỗ béo cho một bọc da hôi thối, thật đáng thương tâm.
Trong cuốn Sa Di Luật Giải, Đức Phật dạy: “Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi, ấy mới gọi là khổ”.
Tại sao Đức Phật nói cái khổ của con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Vì con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời thôi. Còn những người ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi, sẽ trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi không dứt.
Đạo Phật cho thân này là vô thường, là giả hợp, là bất tịnh, hiểu như vậy có phải là yếm thế không? Thưa không. Nhờ biết thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có, nên ngày nào còn sống, ta nên sống đẹp, sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.
Chúng ta không nên hiểu sai lệch rằng vì thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có, rồi chán đời, muốn làm gì thì làm, bỏ bê thân này, chích hút ma túy, quấy phá xã hội. Ai hiểu như vậy là hoàn toàn sai lệch với lời Phật dạy. Chúng ta là Phật tử đã hiểu đạo, phải luôn tỉnh thức rằng sự sống chết đến rất mau, cái chết không hẹn ai hết, nó đến bất ngờ.
Hàng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao sự chết chóc, người chết trẻ, người chết già… Đã thấy như vậy mà sao không giác ngộ để sớm tu hành, còn đợi đến bao giờ? Hãy biết rằng, mỗi khi đánh mất thân người, trăm nghìn muôn kiếp khó tìm lại. Vậy nên hãy thương mình lo tu hành, đừng ham danh lợi phù du.
Kinh Tạp A Hàm, Đức Phật đưa ra bốn hình ảnh con ngựa để ví dụ bốn hạng người:
– Con ngựa thứ nhất chỉ thấy bóng roi đã chạy.
– Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên lưng mới chạy.
– Con ngựa thứ ba, đánh thật đau mới chạy.
– Con ngựa thứ tư, đánh chết cũng không chịu chạy.
Qua hình ảnh bốn con ngựa, Đức Phật chỉ rõ bốn hạng người:
– Hạng người thứ nhất, chỉ nghe tin có người chết đã giác ngộ tu ngay.
– Hạng người thứ hai, chứng kiến một người chết liền giác ngộ tu.
– Hạng người thứ ba, chứng kiến một vài người chết mới chịu tu.
– Hạng người thứ tư, chứng kiến vô số người chết vẫn không hề nhúc nhích, cho rằng cái chết của người ta, không phải của mình.
Phần lớn chúng ta rơi vào con ngựa thứ tư, ít ai là con ngựa thứ nhất, hai, ba.
Vậy hãy sớm tỉnh giác, thân mạng vô thường, ngắn ngủi, thật trống rỗng không có gì chắc chắn.
Dù làm vua, làm quan, khi chết cũng chỉ để lại đống tro tàn. Sống lâu như Bành Tổ 800 năm, nay đâu còn? Giàu sang như Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng xuôi tay.
“Bao bì cốt nhục nung huân huуết
Cưỡng tác kiều уêu cuống hoặc nhân,
Thiên cổ anh hùng giai nhân tận
Bách niên đồng tác nhất khanh trần”.
Nghĩa là:
“Máu mủ thịt хương một túi nhơ
Tô điểm chi mong gạt tình hờ
Vạn thuở anh hùng giai nhân tận
Trăm năm để lại đống tro nhơ”.
Chúng ta đã hiểu rõ thật tướng của thân thể mình. Ngày nào còn sống, hãy tinh tấn tu hành ngày đó, đừng hẹn lần hẹn lữa. Chớ để vô thường đến cướp đi, trăm nghìn muôn kiếp không có cơ hội tu.
Ngày xưa, các vị Tổ luôn để ý đến sự vô thường và xem sinh tử là việc lớn. Khi một ngày trôi qua, các Ngài thường than: “Ôi! Một ngày đã qua mà ta chưa làm được gì!”. Quý Ngài rất quý thời gian tu tập. Để tu tập nghiêm mật, các vị Tổ làm một cái hòm nhỏ để bên gối nằm. Các Ngài luôn liếc nhìn cái hòm, ám chỉ cái chết kề bên, chỉ sơ suất một chút là nhảy vào đó liền. Chính cái hòm nhỏ này có tác dụng lớn lao, giúp các vị Tổ tinh tấn tu hành không xao lãng.
Trong kinh công phu chiều có đoạn:
“Thị nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm
Như thiểu thủy ngư
Tư hữu hà lạc
Đại chúng đương cần tinh tấn
Như cứu đầu nhiên
Đản niệm vô thường
Thận vật phóng dật”.
Nghĩa:
“Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi,
Mạng sống theo đó mà giảm dần
Như cá ở ao cạn nước
Có gì vui đâu
Đại chúng nên cần tinh tấn
Như cứu lửa cháy trên đầu
Luôn nhớ nghĩ vô thường
Chớ nên phóng dật”.
Chúng ta sống cao nhất khoảng 50 đến 100 tuổi, đây chỉ là con số tượng trưng. Có người 1 tuổi đã chết, có người sống đến 10 tuổi, 20, 30 tuổi… rồi qua đời.
Ví dụ tuổi thọ chúng ta là 50 tuổi, cứ một ngày trôi qua, tuổi thọ giảm còn 49 tuổi, cứ thế mà giảm dần đến khi mất mạng. Tục ngữ có câu “Nước chảy đá mòn”, cũng giống như cá ở ao cạn nước. Mặt trời lên mỗi ngày làm nước trong ao hồ bốc hơi, nước cạn dần, mạng sống của cá cũng giảm dần.
Bài thơ trên cho thấy mạng sống kiếp người thật ngắn ngủi, thật trống vắng. Vì vậy, chúng ta nên sớm tỉnh ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn mà một lòng siêng năng, tinh tấn, gấp rút tu hành, chớ buông lung giải đãi, bỏ phí một kiếp người thật oan uổng.
Phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành như cứu lửa cháy trên đầu. Khi lửa cháy trên đầu, chúng ta có hẹn “đợi tôi một hai phút rồi dập tắt sau” không? Không bao giờ. Lửa vừa cháy là phải nhanh chóng dập tắt liền, chậm trễ một chút là thiêu đốt ngay.
 phần nhiều tâm trược loạn, vì thế Ta chỉ tán thán một Tịnh độ ở Tây phương, khiến hữu tình chuyên tâm vào một cảnh, để vãng sinh dễ thành tựu. Nếu nhớ niệm tất cả chư Phật, vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán loạn, Tam muội khó thành, không được vãng sinh”.
Có người đặt câu hỏi: Đức Phật dạy tất cả các pháp hữu tướng đều như huyễn, Ta bà cũng huyễn, Cực lạc cũng huyễn, vậy cần gì niệm Phật cầu sinh Cực lạc, có ích lợi gì?
Để trả lời, xin lấy ví dụ về “giấc mộng” để làm đáp số.
Giấc mộng có mộng ác và mộng lành. Trong mộng ác, ta thường mơ thấy ma quỷ, thấy người cầm dao rượt chém, thấy mình rơi từ núi cao xuống v.v… Những hình ảnh này luôn làm chúng ta thất kinh, hoảng loạn, sợ sệt, không an tâm.
Trong mộng lành, ta thường thấy điều tốt đẹp, như thấy Phật, Bồ tát, chư Tổ, trúng số độc đắc, bạn tốt khuyên tu hành, mơ thấy mình làm vua, làm quan, thi đỗ Đại học v.v… Những hình ảnh đẹp này đem lại đời sống tinh thần an lạc hơn, vui tươi hơn, tâm an tịnh hơn.
Vậy ta chọn giấc mộng nào? Tức nhiên phải chọn giấc mộng lành, mộng đẹp, chứ không ai dại chọn mộng ác.
Giấc mộng ác ví như cõi Ta bà ngũ trược ác thế, còn giấc mộng đẹp ví như cõi Cực lạc. Vậy Ta bà và Cực lạc đều huyễn mộng, nhưng hai cái huyễn mộng này hoàn toàn khác nhau.
Ở trong cảnh mộng khổ của Ta bà, chúng sinh luân chuyển sinh tử không ngừng, chịu khổ trong cảnh mộng, từ mộng cảnh này sang mộng cảnh kia không bao giờ dứt. Càng đi sâu trong mộng, càng mê càng khổ. Chi bằng ta nguyện sinh Cực lạc, tuy là cảnh mộng, nhưng ra khỏi mộng liền thành bậc Đại giác. Uế và tịnh tuy đồng cảnh mộng, nhưng Bồ tát từ Thất địa trở xuống vẫn còn cảm thọ khác nhau; còn nóng, còn lạnh, còn xúc, còn cảm, nên thà rằng ta cảm nhận cảnh giới an lạc để bước vào Phật quả, hơn là chấp sự thọ cảm khổ bức để tâm Bồ-đề bị thối chuyển.
Kinh dạy: “Từ bậc Nhị thừa, sơ phát tâm Bồ tát, cho đến Bồ tát đệ thất địa Viễn Hành, đều ở trong huyễn mộng mà tu, chỉ trừ bậc Bồ tát đệ bát địa trở lên, bậc Đẳng giác và Phật quả mới an tịnh trong Phật quốc Tịnh độ”. Chư Phật đã dạy, chư Bồ tát, chư Tổ đã hành pháp môn này, thì quý vị nên an tâm niệm Phật, chớ đừng hoài nghi.
Thật là thiện căn phước đức nhân duyên cho chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp đã có đủ, nên mới gặp pháp môn niệm Phật. Nhờ đầy đủ phước đức nên dễ tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên đối với pháp môn này. Vì thế, kinh A Di Đà nói rõ: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc”, nghĩa là: không thể đem một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về nước đó.
Chúng ta đã có đủ thiện căn phước đức nhân duyên, nên y giáo phụng hành Pháp môn Tịnh độ một cách nghiêm mật. Nếu không đủ thiện căn phước đức, khó gặp được pháp môn này, khó sinh về thế giới Cực lạc.
Văn Thù, Phổ Hiền tu vô lượng kiếp mới đến thế giới Hoa Tạng, mới gặp Pháp môn Tịnh độ. Còn chúng ta vừa mới học Phật đã tìm được pháp môn này. Hoa Tạng hải hội có 41 vị Pháp thân đại sĩ Bồ tát gặp quý vị, không vị nào không bội phục. Tại sao các Ngài lại bội phục? Vì các Ngài tu vô lượng kiếp mới tìm được pháp môn này, còn chúng ta không hao chút sức nào cũng gặp được. Các Ngài đầy đủ “tín, nguyện, hạnh” cầu vãng sinh về thế giới Cực lạc, thấy Phật thành Phật. Hôm nay, chúng ta cũng áp dụng phương pháp như thế, lý luận như thế, vãng sinh Tây phương, thấy Phật thành Phật cùng với các Ngài không hai không khác.
Đa số phàm phu không tin Phật A Di Đà có thật mà cứ nhận cái giả làm cái thật. Cái gì là giả? Tiền tài, danh vọng. Người trí vứt bỏ ngay, không cần ngó ngàng đến, vì hiểu rõ khi chết, đâu mang theo được của cải vật chất, mà chỉ mang theo công phu tu tập.
Có ai đó hỏi: “Tu theo Pháp môn Tịnh độ là tu cái gì?”.
Trả lời: Tu “Thanh tịnh, bình đẳng giác”.
Tại sao phải tu thanh tịnh, bình đẳng giác?
Trả lời: Vì có đầy đủ Tam bảo và tam vô lậu học, đây là cốt lõi của đạo Phật.
Thanh tịnh: Tăng bảo – Giới
Bình đẳng: Pháp bảo – Định
Giác: Phật bảo – Tuệ
Vậy tu phương pháp nào để đạt tam học và Tam bảo?
Trả lời: Chỉ cần dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật A Di Đà là đủ. Sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật chứa đủ tam học và Tam bảo. Pháp môn niệm Phật thù thắng vi diệu, bất khả tư nghì.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy: “Đây là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật trong một đời”. Niệm Phật cứu độ khắp hết thảy chúng sinh muôn loài.
Niệm Phật có ba điều lợi ở địa ngục:
- Hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ từ tiền kiếp.
- Các tội nhân nghe tiếng niệm Phật đều được giải thoát.
- Được vãng sinh Tây phương Tịnh độ.
Xin đưa ví dụ chứng minh một trong ba điều lợi trên.
Có hai vợ chồng, người vợ hiền lành, siêng năng niệm Phật, chồng thì không thích, nghe niệm Phật là khó chịu. Để chồng có lợi lạc sau khi chết, mỗi ngày chị bắt chồng đánh trống cho chị niệm Phật. Người chồng khờ khạo, vợ sai gì làm nấy. Sau khi lấy nhau ba năm, anh ta chết, rơi vào địa ngục. Đến giờ hành hình, có quỷ cầm cây sắt đánh tội nhân, con quỷ đánh trật, cây sắt va chạm vào vạc dầu kêu lên một tiếng giống tiếng trống. Anh ta nhớ lại tiếng kêu này giống mình đánh trống cho vợ niệm Phật. Duyên niệm Phật khởi dậy, anh niệm A Di Đà Phật. Nhờ niệm Phật, anh ta thoát khỏi địa ngục trở về nhân gian, các tội nhân trong đó nghe tiếng niệm Phật đều được vãng sinh.
Chỉ cần gieo nhân niệm Phật, đời đời kiếp kiếp không gặp quả khổ. Vì thế, kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người vào tháp miếu thờ tượng Phật, miệng xưng Nam mô Phật, hay đưa tay lên tỏ lòng cung kính, cũng được thành Phật”.
Ông Tu Bạt Đà La là đệ tử cuối cùng của Đức Phật. Vì sao ông được Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán? Trong nhiều kiếp quá khứ, ông là người đốn củi ở rừng. Một hôm, bị cọp rượt, ông leo lên cây lớn. Cọp hung dữ, cắn xé dưới gốc cây hết sức ghê gớm. Ông sợ, lớn tiếng niệm “Mô Phật”, cọp liền bỏ đi xa.
Chỉ cần niệm một tiếng Mô Phật, mà được gặp Phật xuất gia chứng quả A-la-hán. Huống hồ chúng ta niệm Phật ròng rã suốt ngày đêm, chắc chắn sẽ được thành Phật sớm.
Vì lợi lạc số đông chúng sinh, hiện nay trên khắp thế giới có biết bao vị cao tăng xiển dương Pháp môn Tịnh độ.
Xin đưa ra một vị cao tăng đang xiển dương Pháp môn Tịnh độ là Pháp sư Tịnh Không, người Trung Hoa, hiện sống tại Úc Châu, tài đức và công năng tu tập về Pháp môn Tịnh độ vang vọng khắp thế giới.
Pháp sư Tịnh Không giảng rõ ràng trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác: “Tôi tin Tịnh độ vì giảng kinh Hoa Nghiêm 17 năm, tôi từ kinh Hoa Nghiêm khai ngộ đại triệt đại ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ vì thấy mười phương chư Phật niệm Phật mà thành Phật, vì thế tôi quyết tâm học pháp môn này mà không cần đến kinh Hoa Nghiêm nữa. Tôi xem kinh Hoa Nghiêm là công cụ đưa tôi vào Tịnh độ, giống như qua sông rồi không cần đến thuyền”.
Lời cuối cùng, thiết tha kêu gọi mọi người sớm bừng tỉnh, tin lời Đức Phật dạy, một lòng thiết tha niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh về thế giới của Ngài. Tóm lại, pháp môn niệm Phật A Di Đà hợp thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật viên mãn. Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của chư Phật, dọc quán suốt năm thời, ngang gồm thâu tám giáo. Điểm son của Pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà liền thẳng đến ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên sở tu, sở chứng, làm tâm thoái chuyển, lại phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do đó, Pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn, thì thực cần lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn mờ ám, mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.