Top 10 Bài Phân Tích Bài Thơ Sóng Hay Nhất Của Xuân Quỳnh

Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện tình yêu mãnh liệt, dạt dào của người phụ nữ thông qua hình tượng những con sóng. Phân tích bài thơ “Sóng” giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc những cung bậc cảm xúc tinh tế và mãnh liệt trong tình yêu.

Bài viết này sẽ cung cấp những bài phân tích chọn lọc và đầy đủ nhất về bài thơ Sóng, giúp bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm này.

Bài thơ Sóng được trích từ tập thơ “Hoa dọc chiến hào,” sáng tác năm 1967 trong chuyến công tác của Xuân Quỳnh đến Diêm Điền, Thái Bình.

Khi phân tích sâu sắc bài thơ Sóng, người đọc sẽ cảm nhận được những cung bậc cảm xúc mãnh liệt, nồng cháy, nhiệt huyết của tình yêu tuổi trẻ, đồng thời cũng thấy được sự dịu êm, sâu lắng. Trong khi tình yêu trong thơ Xuân Diệu luôn bùng cháy, thì tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh lại dịu dàng như những con sóng nhỏ.

Xuân Quỳnh đã miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu như những con sóng ngoài đại dương, khi hồn nhiên, sôi nổi, khi lại bồi hồi, thương nhớ.

Đọc bài thơ Sóng, người đọc càng thêm ngưỡng mộ những người phụ nữ Việt Nam thủy chung, sống hết mình vì tình yêu.

Dưới đây là những mẫu phân tích bài thơ Sóng hay và tinh tế nhất, được chọn lọc để bạn tham khảo.

1. Dàn ý Phân Tích Bài Thơ Sóng

I. Mở bài

Giới thiệu Xuân Quỳnh – một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, người thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính.
Giới thiệu bài thơ Sóng: Sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào,” là bài thơ tiêu biểu viết về tình yêu, thể hiện hồn thơ nữ tính của Xuân Quỳnh.

II. Thân bài

  1. Bản chất, quy luật của “sóng” và “em”
  • Khổ 1:

    • Nghệ thuật tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lý người phụ nữ khi yêu (lúc mãnh liệt, lúc dịu dàng).
    • Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” bản tính của sóng, nên “sóng” tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá bản thân, khát khao vươn tới giá trị tuyệt đích trong tình yêu.
  • Khổ 2:

    • “Ôi con sóng… và ngày sau vẫn thế”: Dù trong quá khứ hay hiện tại, sóng luôn dạt dào, sôi nổi, khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản tính của người phụ nữ muôn đời.
    • “Nỗi khát vọng tình yêu… ngực trẻ”: Liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc trưng muôn đời của tuổi trẻ.
  1. Những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu
  • Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về tình yêu muôn đời.
  • Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời điểm bắt đầu tình yêu.
  1. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu
  • Khổ 5:

    • Nghệ thuật tương phản gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: “ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ, cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.
    • Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.
  • Khổ 6:

    • Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
    • Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.
  1. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu
  • Khổ 7: Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ… Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

  • Khổ 8:

    • “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: Cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.
    • “Như biển kia… bay về xa”: Cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng, đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.
  • Khổ 9:

    • “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
    • Đó là khát khao của người phụ nữ được sống trong “biển lớn tình yêu” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng.
Khái quát giá trị nghệ thuật: Xây dựng thành công hình tượng “sóng,” ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị.
Nội dung: Qua hình tượng sóng, diễn tả tình yêu thiết tha, nồng nàn của người phụ nữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện quan niệm tình yêu mới mẻ, hiện đại: Sự chủ động của người phụ nữ trong tình yêu nhưng vẫn giữ được nét truyền thống.

2. Phân Tích Bài Sóng Mẫu 1

Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ của nữ sĩ dễ đi vào lòng người với vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. “Sóng” là thi phẩm nổi bật trong sự nghiệp thơ ca của Xuân Quỳnh.

Bài thơ có hai hình tượng trung tâm: sóng và em. Sóng vừa là sự vật thiên nhiên, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho sóng tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Tác giả mượn sóng để diễn tả những cung bậc cảm xúc của người con gái đang yêu. “Em” là sự hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh, nơi nữ sĩ trải lòng, giãi bày những suy tư, cảm xúc trong tình yêu. Sóng và em vừa song song tồn tại, vừa soi chiếu lẫn nhau, có lúc lại hòa nhập làm một.

Đoạn thơ “Dữ dội và dịu êm….Khi nào ta yêu nhau” là những câu thơ đầu tiên khắc họa hình tượng sóng và em, thể hiện tiếng lòng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu nêu lên những trạng thái cảm xúc đối lập của sóng: dữ dội, mạnh mẽ xô bờ, khi thì dịu êm, lững lờ trôi. Đó cũng là những cảm xúc của người con gái khi yêu: cuồng nhiệt, đắm say, khi lại e ấp, dè dặt. Những trạng thái mâu thuẫn nhưng thống nhất, được tổ chức theo phép đối, tạo nên cấu trúc cân xứng, hài hòa, làm nổi bật các thuộc tính đa dạng của sóng, cũng như con người. Tác giả đặt những tính từ “dịu êm”, “lặng lẽ” ở cuối câu thơ, thể hiện nét nữ tính.

“Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”

Phép nhân hóa thổi hồn vào sóng, biến nó thành một con người. Sóng không chấp nhận giới hạn chật chội, tìm ra đại dương mênh mông khi không được hiểu, không tìm thấy sự đồng điệu. Trong tình yêu, người phụ nữ cũng không chấp nhận những gì tầm thường, chật hẹp, mà hướng tới những điều cao cả, lớn lao, vươn đến những khát vọng vô bờ.

Trong đoạn thơ tiếp theo, tác giả thông qua quy luật của sóng để nói về quy luật của tình yêu. “Ôi con sóng ngày xưa…Bồi hồi trong ngực trẻ”. Con sóng đã vỗ bờ từ ngàn xưa đến nay và mãi về sau. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Tình yêu cũng vậy, luôn khơi lên những khát khao bồi hồi, rạo rực. Chừng nào còn con người, chừng ấy tình yêu còn tồn tại như món quà kỳ diệu của thượng đế.

Nhân vật trữ tình đứng trước biển khơi, suy tư sâu lắng:

“Trước muôn trùng sóng bể… Từ nơi nào sóng lên”

Người con gái đang nghĩ về bản thân, người thương và sóng biển. Nhân vật trữ tình khao khát lý giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió…Khi nào ta yêu nhau”

“Em” đã không truy tìm được căn nguyên của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu. Tình yêu diệu kỳ, bí ẩn như thế giới tự nhiên. Nó là những rung động của con tim, có những khi lý trí không thể can thiệp, không giải thích được. Tình yêu vốn luôn là một câu hỏi, một ẩn số khó tìm thấy đáp án rõ ràng. Tác giả thốt lên “em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”. Chính cái không biết ấy lại là bằng chứng cho tình yêu chân thật, đắm say, không toan tính, người phụ nữ chỉ đi theo sự dẫn dắt của tâm hồn.

Đoạn thơ trên đã khắc họa sinh động hình tượng sóng và em. Qua hình tượng sóng, tác giả muốn nói lên quy luật bất diệt của tình yêu. Đoạn thơ thành công với thể thơ 5 chữ. Các câu thơ ngũ ngôn nối tiếp nhau như những con sóng miên man, dạt dào ngoài đại dương.

3. Phân Tích Bài Sóng Mẫu 2

Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “Nữ hoàng của thi ca tình yêu”. Thơ của chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Sóng được làm năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào,” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh.

Sóng là hình tượng động, bất biến như “tình yêu muôn thuở/Có bao giờ đứng yên”. Vì vậy, sóng được các nhà thơ chọn làm thi liệu biểu tượng cho tình yêu. Nếu Xuân Diệu mượn sóng để biểu tượng cho tình yêu của anh, thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng làm biểu tượng cho những cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu nhiều khao khát và biến động. Hai hình tượng sóng và em luôn đi đôi, sóng là em, em cũng là sóng, hòa quyện vào nhau, có lúc khiến ta không nhận ra đâu là em đâu là sóng, nhưng có lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau, tôn lên vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa phong phú.

Hình tượng sóng được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Thể thơ năm chữ tạo ra những nhịp điệu của sóng. Cả bài thơ là một đại dương, mỗi khổ thơ là một con sóng lớn, mỗi câu thơ là một con sóng nhỏ. Tất cả tạo nên âm hưởng mênh mang, dào dạt của những con sóng lòng nhiều cung bậc:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: Dữ dội – dịu êm; Ồn ào – lặng lẽ đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển dữ dội, ồn ào, còn những giây phút sóng gió đi qua, biển lại hiền hòa, trở về dịu êm, lặng lẽ. Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát.

Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai mươi, tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Vì thế cho nên:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: Sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang, thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sống chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại.

Tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó làm bồi hồi, xao xuyến, rung động trái tim của lứa đôi, của con trai, con gái, của em và anh.

“Ôi con sóng ngày xưa…….Bồi hồi trong ngực trẻ”

Từ “Ôi!” cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế, muôn đời vẫn thế, vẫn dữ dội, ồn ào, vẫn dịu êm, lặng lẽ như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng yên. Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng, luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ. Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung, giận hờn, những cồn cào da diết. Có yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi ngực trẻ.

Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự phân tích, lý giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên:

“Trước muôn trùng sóng bể…Khi nào ta yêu nhau”

Những tâm hồn bí mật ấy luôn khao khát giao hòa, khao khát khám phá nhưng lại không lý giải nổi tình yêu. Bởi tình yêu là bài toán chưa có lời giải đáp, tình yêu như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình yêu luôn đẹp, luôn mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”.

Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ – một trong những gam màu chủ đạo của tình yêu.

Còn Xuân Quỳnh thì:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Những con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Hòa cùng những con sóng: Sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm hồn thi sĩ và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những con sóng lòng dâng lên dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm.

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước”

Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội, nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì:

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn tả nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ sóng, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù muôn vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ nên con sóng đã hành trình vượt qua không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất chấp cả thời gian “ngày đêm không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.

Và nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh. Đó âu cũng là quy luật của tình yêu.

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Xuân Quỳnh dùng chữ “lòng” rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người. Nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng em nhớ” nghĩa là chị đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lý “cả trong mơ còn thức”.

Câu thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn nhịp sống bởi “tình yêu luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ”. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em bổi hổi bồi hồi, nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc ngủ. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.

Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang theo lớp lớp tâm tình của em:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam”

Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói “Xuôi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng? Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó là phương anh:

“Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” về phương anh. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã là “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng là trực cảm của tình yêu.

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào cũng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Ba từ “Ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu.

Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.”

Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh? Vâng! Đó không chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu.

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

Tóm lại, bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công của bài thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập nhất là thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, chị đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.

Với những phân tích trên, hy vọng bạn sẽ có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, một tuyệt phẩm về tình yêu trong nền văn học Việt Nam.