Kinh Dược Sư: Giải Mã Ý Nghĩa Sâu Sắc và Hướng Dẫn Tụng Niệm Chuẩn Xác

Kinh Dược Sư, hay còn gọi là Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh, là một bộ kinh quan trọng trong Phật giáo, đặc biệt là trong các chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Bài viết này sẽ đi sâu vào ý nghĩa của Kinh Dược Sư và cung cấp hướng dẫn chi tiết về cách tụng niệm để đạt được lợi ích thiết thực nhất.

Kinh Dược Sư là gì? Nguồn gốc và các bản dịch

Kinh Dược Sư được dịch từ bản chữ Hán của ngài Huyền Trang. Bên cạnh đó, còn có bốn bản dịch khác tại Trung Quốc:

  • Đời Đông Tấn (317-322) của ngài Miên thi-lợi Mật-đa-la
  • Đời Lưu Tấn (457) của ngài Huệ Giản
  • Đời Tùy (615) của ngài Đạt-ma-cấp-đa
  • Bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh (707).

Tuy nhiên, bản dịch của ngài Huyền Trang được sử dụng rộng rãi nhất nhờ văn phong trau chuốt và dễ đọc. Bản dịch tiếng Việt vẫn giữ cấu trúc của bản Hán để tạo vần điệu, giúp người đọc dễ nhớ và trì tụng. Kinh Dược Sư gồm 17 phần, mỗi phần đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc trị liệu khổ đau, cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc phân chia này giúp người hành trì dễ dàng tập trung và suy ngẫm.

Hình ảnh Kinh Dược Sư với chữ Hán và chữ ViệtHình ảnh Kinh Dược Sư với chữ Hán và chữ Việt

Ý nghĩa thâm sâu của Kinh Dược Sư

Theo lời Phật dạy, cách đây vô số kiếp có cõi Tịnh Lưu Ly, nơi Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai làm giáo chủ. Danh hiệu “Dược Sư” thể hiện lòng từ bi của vị Phật, dùng “pháp dược” để cứu chữa khổ đau của chúng sinh trong luân hồi.

Để đạt quả vị Như Lai, các vị Phật phải thực hành Bồ Tát đạo, lấy lợi ích chúng sinh làm sự nghiệp. Đức Phật Dược Sư đã phát 12 lời nguyện hướng đến lợi ích của chúng sinh, giúp họ thoát khổ, ấm no và có tướng tốt đẹp.

Ý nghĩa “Cầu chi được lấy” trong Kinh Dược Sư chỉ là biểu trưng, nhấn mạnh vào tha lực độ sinh. Tư tưởng chủ đạo của kinh là tinh thần tự thân, giúp chúng sinh nhận ra nguyên nhân khổ đau do hành vi của chính mình gây ra. Việc giới thiệu nguyện lực của Phật Dược Sư nhằm khơi dậy bản tính Phật tiềm ẩn trong mỗi người. Mỗi đức tính cao cả, mỗi sự chuyển hóa tâm thức là một vị “thuốc” cho sự sống. Tinh thần tự cứu độ này giúp mỗi người trở thành “thầy” của chính mình.

Đọc tụng và hành trì Kinh Dược Sư là phát triển các đức tính tốt đẹp để chữa lành tâm bệnh cho bản thân và muôn loài. Tu hạnh Dược Sư giúp chúng ta nhận được “thuốc” phúc – lộc – thọ và “sống với dược chất tâm linh,” chữa lành vô minh, phiền não, nghiệp chướng.

Tụng Kinh Dược Sư giúp chúng ta nghe Phật dạy cách sống, tu tập tâm, thực hành thiện hạnh và chuyển hóa tâm. Nhờ đó, nghiệp được chuyển hóa và bệnh tật tiêu trừ, thọ mạng kéo dài. Điều này khác biệt với việc chỉ cầu xin Phật mà không thực sự tu tập.

Hình ảnh Phật Dược Sư với ánh sáng lưu lyHình ảnh Phật Dược Sư với ánh sáng lưu ly

Hướng dẫn tụng Kinh Dược Sư chuẩn nhất (Cập nhật 2024)

Dưới đây là hướng dẫn chi tiết cách tụng Kinh Dược Sư, bao gồm các bài nguyện, văn khấn và các nghi thức cần thiết:

1. Nguyện hương

(Cắm hương trước hoặc cầm hương đọc xong thì cắm hương)

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ đạo

Theo tự tính làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm Bồ đề kiên cố

Chí tu đạo vững bền

Xa biển khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 chuông)

2. Văn khấn bạch lễ

(Quỳ, chắp tay bạch)

2.1. Bạch lễ không phát tâm công đức mà tùy hỉ theo đại chúng:

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con; chư vị Hộ Pháp, Thiện Thần, Thần Linh ủng hộ cho chúng con. Đệ tử con tên là:… Pháp danh:… Hiện đang ở tại:… Hôm nay là ngày… tháng… năm…. con xin tác lễ tu tập theo đàn lễ Dược Sư và tùy hỉ công đức của tất cả mọi người để hồi hướng cầu bình an cho gia đình.

(Tùy theo hiện tượng mỗi năm, mỗi đợt dịch bệnh, hạn hán, lũ, cháy,… ở … (địa danh) mà thay đổi. Hiện tại khấn như sau:)

Chúng con cầu thỉnh sự gia trì của Tam Bảo, thỉnh chư Thiên chư Thần tạo các cơn mưa hoặc tạo các duyên để dập tắt được sự việc cháy rừng ở huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu và các duyên cháy rừng khác trên lãnh thổ đất nước Việt Nam.

Giờ này cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng chùa Ba Vàng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh gia tiên, vong linh trên đất ở, vong linh có hữu duyên, vong linh oan gia trái chủ trên bệnh tật ác nạn… hoan hỉ về tại đàn tràng, nghe kinh thính Pháp (Nếu cúng cơm thì đọc: và thọ lễ vật thực hiến cúng của chúng con).

Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, cùng với chúng con cùng tu tập.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 chuông) (1 lễ)

2.2. Bạch lễ có phát tâm công đức:

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con; chư vị Hộ Pháp, Thiện Thần, Thần Linh ủng hộ cho chúng con. Đệ tử con tên là:… Pháp danh:… Hiện đang ở tại:… Hôm nay là ngày… tháng… năm… con xin tác lễ tu tập theo đàn lễ Dược Sư của chùa Ba Vàng cùng làm các công đức để hồi hướng cầu bình an cho gia đình. Con xin tác phúc cúng dường Tam Bảo tứ sự hộ trì chư Tăng là:…; Ấn tống kinh sách là…; Phóng sinh là…; Từ thiện xã hội là… (Nếu tham gia công đức một lần, các buổi tu sau đọc là: Con đã tác phúc các công đức…)

(Tùy theo hiện tượng mỗi năm, mỗi đợt dịch bệnh, hạn hán, lũ, cháy,… ở … (địa danh) mà thay đổi. Hiện tại khấn như sau:)

Chúng con cầu thỉnh sự gia trì của Tam Bảo, thỉnh chư Thiên chư Thần tạo các cơn mưa hoặc tạo các duyên để dập tắt được sự việc cháy rừng ở huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu và các duyên cháy rừng khác trên lãnh thổ đất nước Việt Nam.

Giờ này cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng chùa Ba Vàng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh gia tiên, vong linh trên đất ở, vong linh có hữu duyên, vong linh oan gia trái chủ trên bệnh tật ác nạn… hoan hỉ về tại đàn tràng, nghe kinh thính Pháp (Nếu cúng cơm thì đọc: và thọ lễ vật thực hiến cúng của chúng con).

Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, cùng với chúng con cùng tu tập.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 chuông) (1 lễ)

3. Tán Phật

(Tùy duyên lễ quỳ hoặc đứng; chắp tay đọc; pháp khí: khánh)

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (1 chuông)

4. Quán tưởng

(Tùy duyên lễ quỳ hoặc đứng; chắp tay đọc; pháp khí: khánh)

Phật chúng sinh tính thường rỗng lặng

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn

Lưới đế châu ví đạo tràng

Mười phương Phật Bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 chuông)

Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 chuông) (1 lễ)

5. Xưng dương Như Lai hiệu

(Quỳ hoặc đứng; chắp tay đọc)

Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. (1 chuông)

6. Nhất thiết cung kính nhất tâm kính lễ

(Tùy duyên lễ quỳ hoặc đứng; pháp khí: khánh, chuông)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương ở cõi Quang Thắng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương ở cõi Diệu Bảo phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu ở cõi Viên Mãn Hương Tích phương Đông, cùng chư Phật khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường ở cõi Vô Ưu phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Pháp Hải Lôi Âm ở cõi Pháp Tràng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hý Thần Thông ở cõi Thiện Trụ Bảo Hải phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Phật Dược Sư Lưu Ly Quang ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Kinh Bản Nguyện Công Đức của Phật Dược Sư và chú Quán Đỉnh cùng Tôn Pháp ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Bồ tát Nhật Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Bồ tát ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Bồ tát Nguyệt Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Bồ tát ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Thánh chúng trong Hải hội Thanh tịnh ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng Thánh chúng ở khắp Pháp giới. (1 chuông) (1 lễ)

7. Sám hối

(Quỳ khai chuông mõ sám hối; pháp khí: mõ, chuông)

Đệ tử chúng con một lòng thành

Xin giãi bày tội lỗi xưa nay

Xét con tạo ác đã dày

Vì ngu, tham, giận mà gây thói tà.

Thân, miệng, ý sinh ra mọi tội

Suy cho cùng đều bởi sáu căn.

Mắt ưa sắc, lưỡi tham ăn

Tai say mê tiếng, mũi thuần mến hương.

Thân thích xúc, lòng vương mọi pháp

Hợp cùng nhau tạo ác vô cùng

Xấu xa chất chứa đầy lòng

Hại người, hại vật thật không thiếu gì.

Lòng tham, giận, ngu si điên đảo

Miệng điêu ngoa trở tráo trăm chiều

Bỗng dưng thường đặt nên điều

Ăn không nói có dệt thêu hại người.

Hết nguyền rủa lại lời độc ác,

Chẳng khác gì Càn Thát, Ma Vương,

Thân còn trộm cắp đủ đường

Tham tàn giết hại chẳng thương muôn loài.

Thói nguyệt hoa đêm ngày say đắm

Làm bao điều rối loạn nhân luân

Nay con hổ thẹn muôn phần

Vì mê nên đã trầm luân bao đời.

Thân chẳng khác bèo trôi sóng vỗ

Chịu đắm chìm biển khổ sông mê

Bấy lâu chưa biết đường về

Cam lòng theo nghiệp dắt đi đủ đường.

Chư Phật rộng lòng thương con dại

Muốn cứu con thoát khỏi luân hồi

Gắng công cầu đạo không ngơi

Trải bao cay đắng chẳng lui chuyển lòng.

Tổn tính mệnh cũng không hề tiếc

Nguyện đời đời độ hết chúng sinh

Con nay dốc một lòng thành

Cúi xin giải tỏ tội tình của con.

Bằng tơ tóc chẳng còn dám giấu

Sám hối cầu Tam Bảo chứng minh

Trước cầu sạch tội của mình

Sau xin cho cả chúng sinh mọi loài.

Bao tội lỗi đồng thời giải thoát

Dốc lòng thành xin Phật rộng thương

Từ nay chẳng dám tưởng màng

Gây nên tội ác để mang sau này.

Việc phúc thiện đêm ngày xin gắng

Đạo Bồ đề nguyện chứng không lui

Được rồi xin độ muôn loài

Đều cùng thành Phật đời đời yên vui.

Xin cho con được như lời

Sám hối phát nguyện đã rồi

Con xin lễ Phật cùng mười phương Tăng. (3 chuông)

Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Thập phương Pháp giới Thường trụ Tam Bảo. (1 chuông) (1 lễ)

8. Tán lư hương

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ, chuông)

Lư trầm vừa đốt,

Pháp giới thơm lừng,

Xa đưa Hải hội Phật đều mừng.

Đâu đâu cũng thấy cát tường vân,

Thành ý ân cần, chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) (3 chuông)

9. Tán kinh

(Ngồi đọc. Pháp khí: mõ, chuông)

Sa Bà chẳng ở được lâu dài,

Sớm liệu tụng kinh cửa Phật đài,

Hai sáu nguyện vương tiêu hết tội,

Ba nghìn Hóa Phật rủ lòng soi.

Hoa sen Tây Trúc đầy thơm ngát,

Quả phúc Nam Diêm được tốt tươi,

Giải kết, tiêu tai, thêm tuổi thọ,

Vững vàng bản mệnh, được yên vui.

Nam mô Tiêu tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (3 lần) (3 chuông)

10. Tán Pháp

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ, chuông)

Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn

Trăm nghìn muôn kiếp khó được gặp

Nay con nghe thấy vâng gìn giữ

Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần) (3 chuông)

11. Tán thán mười hai nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly

(Ngồi đọc. Pháp khí: mõ, chuông)

Nguyện thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Chính Đẳng Chính Giác, thân Ta có hào quang sáng suốt, rực rỡ chiếu khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới, khiến cho tất cả chúng hữu tình đều có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, cùng tám chục món tùy hình trang nghiêm như thân của Ta vậy. (1 chuông)

Nguyện thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, thân Ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi, công đức cao vòi vọi và an trú giữa từng lưới dệt bằng tia sáng, tỏ hơn vầng nhật nguyệt. Chúng sinh trong cõi u minh đều nhờ ánh sáng ấy mà tâm trí được mở mang và tùy ý muốn đi đến chỗ nào để làm các sự nghiệp gì cũng đều được cả. (1 chuông)

Nguyện thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, dùng trí tuệ phương tiện vô lượng vô biên độ cho chúng hữu tình, khiến ai nấy đều có đủ các vật dụng, chứ không cho ai phải chịu sự thiếu thốn. (1 chuông)

Nguyện thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình tu theo tà đạo, thì Ta khiến họ quay về an trụ trong đạo Bồ Đề, hoặc có những người tu hành theo hạnh Thanh Văn, Độc Giác, thì Ta cũng lấy phép đại thừa mà dạy bảo cho họ. (1 chuông)

Nguyện thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nhiều vô lượng, vô biên ở trong giáo pháp của Ta mà tu hành theo hạnh thanh tịnh thì Ta khiến cho tất cả đều giữ được giới pháp hoàn toàn đầy đủ cả tam tụ tịnh giới. Giả sử có người nào bị tội hủy phạm giới pháp mà khi đã nghe được danh hiệu Ta thì trở lại được thanh tịnh, khỏi sa vào đường ác. (1 chuông)

Nguyện thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào thân hình hèn hạ, các căn không đủ, xấu xa, khờ khạo, tai điếc, mắt đui, nói năng ngọng lịu, tay chân tật nguyền, lác hủi, điên cuồng, chịu tất cả những bệnh khổ ấy mà khi đã nghe danh hiệu Ta thì liền được thân hình đoan chính, tâm tính khôn ngoan, các căn đầy đủ, không còn những bệnh khổ ấy nữa. (1 chuông)

Nguyện thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào bị những chứng bệnh hiểm nghèo không ai cứu chữa, không ai để nương nhờ, không gặp thầy, không gặp thuốc, không bà con, không nhà cửa, chịu nhiều nỗi nghèo hèn khốn khổ, mà nếu danh hiệu Ta đã nghe lọt vào tai một lần thì tất cả bệnh hoạn khổ não đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 chuông)

Nguyện thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có những phụ nữ nào bị trăm điều hèn hạ khổ sở của thân gái làm cho buồn rầu, bực tức, sinh tâm nhàm chán, muốn bỏ thân ấy, mà nếu nghe danh hiệu Ta rồi thì tất cả đều được chuyển thân gái thành thân trai, có đủ hình tướng trượng phu, cho đến chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 chuông)

Nguyện thứ chín: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, thì khiến cho chúng hữu tình ra khỏi vòng lưới ma nghiệp, được giải thoát tất cả sự ràng buộc của ngoại đạo. Nếu có những kẻ sa vào rừng ác kiến, Ta nhiếp dẫn họ trở về với chính kiến và dần dần họ tu tập theo các hạnh Bồ tát được mau chứng đạo chính đẳng Bồ Đề. (1 chuông)

Nguyện thứ mười: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào mà pháp luật nhà Vua gia tội phải bị xiềng xích, đánh đập, hoặc bị giam giữ trong chốn lao tù, hoặc bị chém giết, hoặc bị nhiều tai nạn nhục nhã, thân tâm chịu những nỗi khổ, buồn rầu, bứt rứt, nếu nghe đến danh hiệu Ta, thì nhờ sức oai thần phước đức của Ta đều được giải thoát tất cả những nỗi ưu khổ ấy. (1 chuông)

Nguyện thứ mười một: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào bị sự đói khát hoành hành, đến nỗi vì tạo miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, mà nếu nghe danh hiệu Ta rồi chuyên niệm thọ trì thì trước hết Ta dùng các món ăn uống ngon lạ ban bố cho thân họ được no đủ và sau Ta mới đem Pháp vị nhiệm mầu kiến lập cho họ cái cảnh giới an lạc hoàn toàn. (1 chuông)

Nguyện thứ mười hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào nghèo đến nỗi không có áo che thân, bị muỗi mòng cắn đốt, nóng lạnh dãi dầu, ngày đêm khổ bức, nếu nghe đến danh hiệu Ta mà chuyên niệm thọ trì thì Ta sẽ khiến cho được như ý muốn: Nào các thứ y phục tốt đẹp, nào các bảo vật trang nghiêm, nào tràng hoa, phấn sáp bát ngát mùi thơm và trống nhạc cùng những điệu ca múa tùy tâm muốn thưởng thức món nào cũng được thỏa mãn cả. (1 chuông)

12. Dược Sư thần chú

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ, chuông)

Nam mô Bạt già bạt đế. Bệ sát xả, lũ rô thích lưu ly. Bát lặt bà, hắt ra xà giả. Đát tha yết đa ra, a ra ha đế, tam miệu tam bột đà da, Đát điệt tha. Án, Bệ sát thệ, Bệ sát thệ, Bệ sát xả, Tam một yết đế tóa ha.(7 lần) (3 chuông)

13. Tán thán pháp hội Dược Sư

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ, chuông)

Hải hội Dược Sư,

Sáng rực thần quang,

Tám vị Bồ Tát giáng cát tường,

Bảy vị Phật tuyên dương.

Nhật nguyệt hồi quang,

Ban phúc thọ an khang,

Giải kết, giải kết, giải oan kết,

Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,

Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành,

Đối trước Phật đài, cầu giải kết.

Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.

Tiêu tai Diên Thọ Dược Sư Phật,

Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật. (1 chuông)

14. Bài niệm Phật

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ, chuông)

Mười hai nguyện lớn, giáo chủ Đông phương.

Bốn chín đèn soi sáng đàn trường.

Bảy bảy đức chân thường, lễ bái tán dương.

Hết tai nạn được thọ trường.

Nam mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (30 lần) (1 chuông)

Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát. (3 lần) (1 chuông)

Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. (3 lần) (1 chuông)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần) (3 chuông)

15. Phổ Hiền hạnh nguyện

(Ngồi đọc; pháp khí: mõ)

Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:

Một là kính lễ chư Phật.

Hai là xưng tán Như Lai.

Ba là rộng tu cúng dường.

Bốn là sám hối nghiệp chướng.

Năm là tùy hỷ công đức.

Sáu là thỉnh Phật chuyển pháp.

Bảy là thỉnh Phật trụ thế.

Tám là thường theo học Phật.

Chín là hằng thuận chúng sinh.

Mười là hồi hướng khắp tất cả.

(Nếu cúng cơm thì quỳ gối chắp tay khấn)

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Chúng con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh, chư Hộ Pháp, chư Thiên, chư Thần Linh chứng giám, chư vong linh hoan hỷ, hôm nay gia đình chúng con thành tâm nương đức chư Tăng chùa Ba Vàng, tu tập theo đàn lễ Dược Sư, chúng con xin có bát cơm chén nước lòng thành dâng lên cúng dường:

Thượng: Chúng con xin dâng lên cúng dường thập phương chư Phật chứng minh.

Trung: Chúng con xin dâng lên cúng dường chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh.

Hạ: Chúng con xin dâng lên cúng dường chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa tại nơi đây.

Sau: Chúng con xin được nương oai lực Tam Bảo, hiến cúng cho tất cả các vong linh đã thỉnh mời. Nguyện cho các vong linh được nương sự bố thí trong đàn lễ cúng này của con mà được thọ thực no đủ.

(Ngồi; đọc chú Biến thực, Biến thủy; pháp khí: mõ, chuông)

Chú biến thực: Nam mô tát phạ đát tha, nga đá phả rô chỉ đế, ám tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (7 lần) (1 chuông)

Chú biến thủy: Nam mô tô rô bà ra, đát tha nga đá ra, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô sa bà ha. (7 lần) (1 chuông)

Phổ cúng dường: Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (7 lần) (3 chuông)

16. Phục nguyện

(Quỳ, chắp tay đọc)

Đệ tử chúng con thành tâm đối trước Phật đài tán dương công đức chư Phật, chư Bồ Tát, Thánh Hiền và sám hối, cùng các công đức đã phát nguyện hồi hướng cho: (đọc mong cầu)… và cả gia đình con được tai ách tiêu trừ, oan khiên hóa giải, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, cả gia đình được cùng nhau tu theo chính Pháp của Phật.

Chúng con lại hồi hướng nguyện cho các vong linh gia tiên… cùng các vong linh trên đất, vong linh oan gia trái chủ có hữu duyên với cả gia đình chúng con được nương về nơi Tam Bảo kết duyên pháp lữ với chúng con cùng nhau tu theo chính Pháp của Phật cho tới ngày thành Phật.

Chúng con lại xin nguyện cho chính Pháp của Phật được tuyên dương, thế giới được hòa bình, mọi loài được tu theo Phật pháp.

(Tùy theo hiện tượng mỗi năm, mỗi đợt dịch bệnh, hạn hán, lũ, cháy,… ở … (địa danh) mà thay đổi phần hồi hướng. Hiện tại hồi hướng như sau:)

Chúng con cầu thỉnh sự gia trì của Tam Bảo, thỉnh chư Thiên chư Thần tạo các cơn mưa hoặc tạo các duyên để dập tắt được sự việc cháy rừng ở huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu và các duyên cháy rừng khác trên lãnh thổ đất nước Việt Nam.

Chúng con lại hồi hướng nguyện cầu đất nước có minh quân và các cấp lãnh đạo, là những người có tín tâm với chính Pháp của Phật, ủng hộ cho Phật Pháp, hộ trì cho nhân dân đất nước được bình an.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 chuông) (1 lễ)

17. Hồi hướng

(Quỳ ; pháp khí: mõ, chuông)

Tụng kinh công đức có bao nhiêu,

Con xin lấy đó hồi hướng về,

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn. (1 chuông)

Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não,

Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời,

Nguyện các tội chướng thảy tiêu trừ,

Đời đời thường hành Bồ tát đạo. (1 chuông)

Nguyện đem công đức tu hành này,

Chan rải mười phương khắp tất cả,

Hết thảy chúng con cùng các loài,

Đồng được lên ngôi Vô Thượng giác. (1 chuông)

18. Tam tự quy

(Tùy duyên quỳ hoặc đứng; pháp khí: khánh, chuông)

Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 chuông) (1 lễ)

Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 chuông) (1 lễ)

Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (3 chuông) (1 lễ)

Hành trì Kinh Dược Sư để đạt lợi ích chân thật

Kinh Dược Sư dạy rằng, nếu muốn khỏi bệnh khổ, người thân nên thọ trì tám phần trai giới trong bảy ngày đêm, cúng dường chư Tăng, lễ bái Đức Dược Sư, đọc tụng kinh 49 biến, thắp 49 ngọn đèn, tạo 7 hình tượng Đức Dược Sư và phóng sinh 49 loài vật.

Tuy nhiên, nhiều người lầm tưởng chỉ cần đọc kinh là có thể chuyển hóa nghiệp chướng. Thực tế, cần phải hành trì, tức là thực hành những điều Phật dạy trong kinh.

Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh chia sẻ rằng, người thân nên thọ trì tám phần trai giới, cúng dường chư Tăng, lễ bái Đức Phật Dược Sư, tu tập cung kính Tam Bảo, tán thán công đức Tam Bảo, lễ Phật sám hối tội lỗi, tụng kinh, trì trai giữ giới, thực tập các tâm thiện lành, cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo, giúp đỡ người bệnh, phóng sinh cứu vật, tu tâm từ bi.

Nghiệp lực chi phối cuộc sống. Nghiệp ác gây ra tai họa và khổ đau. Thực hành theo lời Phật dạy trong Kinh Dược Sư giúp tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp.

Xem thêm: Ý nghĩa của Kinh Phổ Môn và cách tụng Kinh Phổ Môn chuẩn nhất.