Kinh Dịch, bộ sách kinh điển của Trung Hoa, là một hệ thống tư tưởng triết học sâu sắc của người Á Đông cổ đại, dựa trên nguyên lý cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi. Khởi nguồn từ một hệ thống bói toán, Kinh Dịch dần được các nhà triết học Trung Hoa phát triển, bổ sung nội dung diễn giải ý nghĩa và truyền đạt tư tưởng triết học, trở thành tinh hoa của cổ học Trung Hoa, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh.
kinh-dich-co
Kinh (經 – jīng): Tác phẩm kinh điển, quy tắc, bền vững, miêu tả quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.
Dịch (易 – yì): Sự thay đổi của các thành phần bên trong một vật thể, tạo nên sự khác biệt.
Khái niệm “Kinh Dịch” ẩn chứa ba ý nghĩa cơ bản, liên quan mật thiết với nhau:
- Bất dịch: Bản chất của thực thể. Vạn vật biến đổi, nhưng luôn tồn tại nguyên lý bền vững, quy luật trung tâm, không đổi theo không gian và thời gian.
- Biến dịch: Hành vi của mọi thực thể. Vạn vật liên tục thay đổi. Nhận thức sự thay đổi giúp con người hiểu tầm quan trọng của sự mềm dẻo và trau dồi giá trị để ứng xử phù hợp.
- Giản dịch: Thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ rõ ràng và đơn giản, dù biểu hiện phức tạp.
Tóm lại: Biến dịch tạo nên sự sống; Bất dịch tạo nên trật tự của sự sống; Giản dịch giúp con người quy tụ biến động thành quy luật để tổ chức đời sống xã hội.
phuc hy
Nguồn gốc và quá trình hình thành:
Truyền thuyết kể rằng Kinh Dịch bắt đầu từ vua Phục Hy, khi long mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà với các khoáy trên lưng từ một đến chín. Vua Phục Hy hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ và vạch ra thành nét.
- Hai Nghi: Vạch liền (khí Dương) và vạch đứt (khí Âm).
- Bốn Tượng: Hai vạch chồng lên nhau.
- Tám Quẻ: Ba vạch chồng lên nhau (quẻ đơn).
- Sáu mươi tư Quẻ: Hai quẻ đơn chồng lên nhau (quẻ kép).
Từ thời Phục Hy đến cuối nhà Thương, Kinh Dịch chỉ là những vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu chữ nghĩa.
Sự phát triển qua các triều đại:
- Nhà Chu: Chu Văn Vương đặt tên và diễn giải lời dưới mỗi quẻ (Lời Quẻ/Thoán từ) để nói về sự lành dữ.
- Chu Công (Cơ Đán): Chia mỗi quẻ thành sáu Hào, thêm lời dưới mỗi hào (Lời Hào/Lời Tượng) để nói về sự lành dữ của từng hào.
- Khổng Tử: Soạn Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái (Thập dực) để tán rộng ý nghĩa Kinh Dịch.
Trình Di nói: “Rất huyền vi là Lý, rất tỏ rõ là Tượng, thể chất và công dụng vẫn là một nguồn, huyền vi và tỏ rõ không hề cách nhau, xem sự hội thông, để thi hành điển lễ của nó, thì Lời không có cái gì không đủ. Cho nên kẻ khéo học dịch, tìm kiếm về Lời, phải tự chỗ gần trước đã. Nếu mà khinh rẻ chỗ gần thì không phải là kẻ biết nói Kinh Dịch. Còn sự do Lời mà biết được Ý thì cốt ở người.“
Mục Lục
Các khái niệm cơ bản trong Kinh Dịch
Lưỡng Nghi
luong-nghi
Lưỡng Nghi là khởi nguồn của Kinh Dịch, đại diện cho Âm (vạch đứt) và Dương (vạch liền).
Tứ Tượng
Hình ảnh Tứ tượng
Tứ Tượng là hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, bao gồm: Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm và Thiếu Âm.
Quẻ đơn (Bát Quái)
Tứ Tượng chồng thêm một vạch nữa (ba vạch) tạo thành tám hình thái khác nhau, gọi là Bát Quái (quẻ đơn).
Quẻ kép
Quẻ kép (trùng quái) là hai quẻ đơn chồng lên nhau, tạo thành sáu mươi tư hình thái khác nhau, gọi là Sáu mươi tư quẻ. Về lý thuyết, có thể chồng hai quẻ kép lên nhau, nhưng trí tuệ con người có lẽ chưa thể hiểu hết. Tiêu Diên Thọ đã thử chồng 64 thẻ lên nhau tạo thành 4096 quẻ (12 hào), nhưng ít người theo.
Các biểu tượng của Kinh Dịch nằm trong tập hợp 64 tổ hợp của các đường trừu tượng (quẻ). Mỗi quẻ có 6 hào (đoạn thẳng ngang), mỗi hào là Dương (đường liền) hoặc Âm (đường đứt). Sáu hào xếp từ dưới lên trên tạo ra 2^6 = 64 tổ hợp quẻ.
Mỗi quẻ là tổ hợp của hai tập con (quái), mỗi quái có ba đường. Có 2^3 = 8 quái khác nhau.
Mỗi quẻ đại diện cho một trạng thái, tiến trình hoặc sự thay đổi. Khi gieo quẻ, mỗi hào có thể tĩnh hoặc động. Hào động có thể thay đổi từ Âm sang Dương hoặc ngược lại, tạo thành quẻ khác. Việc giải nghĩa quẻ dựa trên sự cân nhắc và xem xét các thay đổi này.
Các phương pháp gieo quẻ truyền thống sử dụng số ngẫu nhiên để sinh ra quẻ, do đó 64 quẻ không đồng nhất về xác suất.
Có nhiều cách sắp xếp quái và quẻ. Bát quái là sự sắp xếp của các quái, thường thấy trên gương hoặc đĩa. Truyền thuyết nói Phục Hy tìm thấy bát quái viết trên mai rùa (Hà Đồ). Cách sắp xếp này gọi là Tiên thiên bát quái.
tien-thien-bat-quai
Thành phần hợp thành của quẻ
Vạch liền là Dương, tượng của mặt trời. Vạch đứt là Âm, tượng của mặt trăng. Mỗi vạch (liền hoặc đứt) là một hào. Các thành phần này được biểu diễn trong Thái Cực đồ (☯), miêu tả quan hệ giữa hai trạng thái của mọi thay đổi: khi Dương đạt cực đỉnh thì Âm bắt đầu phát sinh và ngược lại. Thái Cực đồ cũng là nguyên lý phát sinh Âm-Dương.
- Vô Cực sinh Thái Cực
- Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
- Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng
- Tứ Tượng sinh Bát Quái
- Bát Quái sinh vô lượng
Trong đó:
- Vô Cực tương đương Vô Vi (hư vô) trong Lão giáo.
- Thái Cực là trạng thái cân bằng khi vũ trụ hình thành.
- Lưỡng Nghi là Âm và Dương.
- Tứ Tượng là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm.
Dưới đây, quái và quẻ được biểu diễn theo chiều ngang từ trái qua phải, với ‘|’ cho Dương và ‘:’ cho Âm. Lưu ý rằng, trong thực tế, quái và quẻ là các đường theo chiều đứng từ thấp lên cao (cần quay ngược chiều kim đồng hồ 90°).
Có tám quái (bát quái) tạo thành do tổ hợp chập ba của Âm và/hoặc Dương:
Số | Quái | Tên | Bản chất tự nhiên | Ngũ hành | Độ số Hà Đồ/Lạc Thư | Hướng (Tiên Thiên/Hậu Thiên) |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | Càn (乾 qián) | Trời (天) | dương kim | 6 | ||
2 | : | Đoài (兌 duì) | Đầm (hồ) (澤) | âm kim | 4 | |
3 | : | Ly (離 lý) | Hỏa (lửa) (火) | âm hỏa | ||
4 | :: | Chấn (震 zhèn) | Sấm (雷) | dương mộc | 9 | |
5 | : | Tốn (巽 xùn) | Gió (風) | âm mộc | 3 | |
6 | : | : | Khảm (坎 kǎn) | Nước (水) | dương thủy | 1 |
7 | :: | Cấn (艮 gèn) | Núi (山) | dương thổ | 8 | |
8 | ::: | Khôn (坤 kūn) | Đất (地) | âm thổ | 2 | bắc/tây nam |
Ba hào dưới của quẻ (nội quái) thể hiện xu hướng thay đổi bên trong. Ba hào trên của quẻ (ngoại quái) thể hiện xu hướng thay đổi bên ngoài. Sự thay đổi chung của quẻ là liên kết động của những thay đổi bên trong và bên ngoài. Ví dụ, quẻ số 13 (|:||||) Thiên Hỏa đồng nhân, bao gồm nội quái |:| (Ly/Hỏa), liên kết với ngoại quái ||| (Càn/Trời).
Bát quái nạp vào Hà Đồ và 8 đường kinh nạp vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng được minh họa như sau:
330px-Hado
Ha-Do-12-duong-kinh
he 64 que tien thien
he 64 que tien thien 1
tien-thien-ban-cau-bac
tien thien ban cau nam
tuong so tien thien dia cau phan cuc bac nam
ngu hang tuong khac trong Ha do va bat quai hau thien
Biểu đồ các quái
| Ngoại quái/Nội quái | |||Càn
Trời | |::Chấn
Sấm | :|:Khảm
Nước | ::|Cấn
Núi | :::Khôn
Đất | :||Tốn
Gió | |:|Ly
Hỏa | ||:Đoài
Đầm |
| :———————- | :——————- | :——————- | :——————- | :——————- | :——————- | :——————- | :——————- | :——————- |
| |||Càn | 1 | 34 | 5 | 26 | 11 | 9 | 14 | 43 |
| |::Chấn | 25 | 51 | 3 | 27 | 24 | 42 | 21 | 17 |
| :|:Khảm | 6 | 40 | 29 | 4 | 7 | 59 | 64 | 47 |
| ::|Cấn | 33 | 62 | 39 | 52 | 15 | 53 | 56 | 31 |
| :::Khôn | 12 | 16 | 8 | 23 | 2 | 20 | 35 | 45 |
| :||Tốn | 44 | 32 | 48 | 18 | 46 | 57 | 50 | 28 |
| |:|Ly | 13 | 55 | 63 | 22 | 36 | 37 | 30 | 49 |
| ||:Đoài | 10 | 54 | 60 | 41 | 19 | 61 | 38 | 58 |
64 Quẻ Kinh Dịch
Dưới đây là sáu mươi tư quẻ của Kinh Dịch.
- Quẻ 1-30 (Thượng Kinh): “Đạo của Trời Đất” (Càn, Khôn).
- Quẻ 31-64 (Hạ Kinh): “Đạo của vợ chồng” (Hàm, Hằng).
Tên gọi các quẻ:
- Ngoại quái + Nội quái + Ý nghĩa quẻ.
- Ví dụ: Thủy Hỏa Ký Tế (Khảm-Thủy, Ly-Hỏa, Ký Tế-đã xong).
- Ví dụ: Địa Sơn Khiêm (Khôn-Địa, Cấn-Sơn, Khiêm-khiêm nhường).
- |||||| Thuần Càn (乾 qián)
- :::::: Thuần Khôn (坤 kūn)
- |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)
- :|:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)
- |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 xū)
- :|:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng)
- :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)
- ::::|: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ)
- |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)
- ||:||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ)
- |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài)
- :::||| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ)
- |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)
- ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu)
- ::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)
- :::|:: Lôi Địa Dự (豫 yù)
- |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí)
- :||::| Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ)
- ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín)
- ::::|| Phong Địa Quan (觀 guān)
- |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)
- |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì)
- :::::| Sơn Địa Bác (剝 bō)
- |::::: Địa Lôi Phục (復 fù)
- |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)
- |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)
- |::::| Sơn Lôi Di (頤 yí)
- :||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)
- :|::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)
- |:||:| Thuần Ly (離 lý)
- ::|||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián)
- :|||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng)
- ::|||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)
- ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng)
- :::|:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)
- |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)
- |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)
- ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)
- ::|:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn)
- :|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)
- ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)
- |:::|| Phong Lôi Ích (益 yì)
- |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài)
- :||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)
- :::||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì)
- :||::: Địa Phong Thăng (升 shēng)
- :|:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn)
- :||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)
- |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 gé)
- :|||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)
- |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn)
- ::|::| Thuần Cấn (艮 gèn)
- ::|:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)
- ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)
- |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)
- ::||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 lǚ)
- :||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)
- ||:||: Thuần Đoài (兌 duì)
- :|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)
- ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)
- ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú)
- ::||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)
- |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì)
- :|:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
Cốt lõi của Kinh Dịch
Cốt lõi của Kinh Dịch là thuyết “Tam dịch”:
- Giản dịch: Chuyển đổi sự phức tạp thành vấn đề dễ hiểu và xử lý.
- Biến dịch: Vạn vật luôn biến hóa, phát triển.
- Bất dịch: Quy luật biến đổi của vạn vật là bất biến.
Bất dịch là cân bằng cơ bản. Biến dịch là phát triển, không cân bằng. Giản dịch là dùng phù hiệu đơn giản để khái quát sự phức tạp. Phát triển, không cân bằng là tuyệt đối. Cân bằng là tương đối.
Tác dụng của Kinh Dịch
Kinh Dịch là bảo điển giải mã vũ trụ, hạnh phúc nhân sinh, là triết lý và kinh nghiệm hàng ngàn năm của văn minh Á Đông, bao la vạn tượng, liên quan đến nhiều tri thức, như một bộ bách khoa toàn thư.
Kinh Dịch trao cho nhân loại 3 chiếc chìa khóa vàng:
- Âm dương: Cân bằng âm dương tạo hài hòa, hài hòa tạo phát triển.
- Ngũ hành: Vạn vật liên quan đến ngũ hành. Mệnh lý học và phong thủy sinh ra từ đây.
- Bát quái: Phát triển thành “Văn Vương 64 quẻ”, cho biết 64 mật mã của vũ trụ.
dung phong thuy trong kinh dich
Nguồn gốc Kinh Dịch
Nguồn gốc Kinh Dịch là câu hỏi được nhiều học giả đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Kinh Dịch xuất hiện trước các nền văn minh trên Trái Đất, là di sản của một nền văn minh cao cấp cổ xưa, rải rác khắp thế giới. Người Maya, Ai Cập cổ đại, Khmer, Ấn Độ cổ cũng có những tri thức tương tự.
Người Trung Hoa và Việt Nam may mắn có nhiều mảnh vụn hơn. Trung Hoa có Khổng Tử và Chu Công san định và chú giải Kinh Dịch có hệ thống, nên thường được coi là cái nôi của Kinh Dịch.
Tư liệu lịch sử
Từ hai nghìn năm trước, tổ tiên người Việt đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng nó xây dựng nền tảng văn hoá Việt Nam, giúp chúng ta không bị đồng hoá trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa.
Người Trung Hoa tiếp thu Kinh Dịch của Việt Nam và dùng nó xây dựng văn hoá của họ. Trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, nhưng sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch.
Người Trung Hoa trọng hướng Đông, nhưng trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh. Mỗi khi bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam. Điều này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Đánh giá từ các nhà nghiên cứu
Trong vòng 60 năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam nhận thấy Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, với nhiều bằng chứng vật thể trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
Tuy nhiên, Wikipedia viết tổ của đại tộc Bách Việt chính là Phục Hy, nên sự tồn tại và xuất hiện ở Việt Nam là điều dễ hiểu.
Kinh Dịch có phải dùng để bói mệnh, xem phong thủy?
Kinh Dịch là một cỗ máy khổng lồ mô phỏng các dạng thức hoạt động và sự sống của vũ trụ, thời gian và không gian. Ví dụ gần nhất là các siêu máy tính lượng tử chuyên nghiên cứu và tính toán sự giãn nở của hệ ngân hà.
boi menh
Kinh Dịch có cơ chế tính toán (toán học vũ trụ) hoàn hảo, có thể tính hết mọi thứ từ quá khứ đến tương lai. Nhỏ thì tính được số mệnh một người, lớn thì thấy được vận mệnh của một quốc gia từ vài chục đến hàng ngàn năm sau. Biểu hiện đơn giản nhất là 64 quẻ, nhưng bao hàm từ sinh mệnh con người, vạn vật đến cả thiên thể vũ trụ.
Vì Kinh Dịch to lớn như vậy, người trầm mê trong tiểu Đạo thế gian thì tìm thấy trong Dịch phương pháp bói mệnh, xem phong thủy, trừ tà. Người đức cao trí lớn muốn cải biến xã hội thì thấy trong đó có binh pháp, đạo trị quốc… Ai cũng cho rằng điều mình hiểu là đúng, vì thế từ cổ chí kim sách bình giải Kinh Dịch và ứng dụng Kinh Dịch nhiều vô số. Chính vì nhân tâm phức tạp nên mới làm cho lời dạy của Thánh nhân trở nên tạp loạn, làm mất đi giá trị chân chính của Kinh Dịch, dẫn đến cái họa cho người đời.
Các sách kinh dịch nổi bật:
- Kinh dịch trọn bộ – Ngô Tất Tố
- Chu Dịch Vạn Xuân – Người Mới Và Kỷ Nguyên Mới
- Ứng Dụng 64 Quẻ Kinh Dịch Trong Dự Báo, Dự Đoán
- Sổ Tay Kinh Dịch
- Dịch Kinh Tường Giải (Di Cảo): Quyển Thượng
- Kinh Dịch Diễn Giải Và Diễn Ca
- Nhân Mệnh Trong Kinh Dịch
- Bí Ẩn Trên Bàn Tay
- Dịch Lý Và Con Người
- Thuật Số Chu Dịch