GS Đỗ Xuân Hợp: Anh Hùng Quân Y Kiệt Xuất, Người Đặt Nền Móng Giải Phẫu Học Việt Nam

Giáo sư Đỗ Xuân Hợp là một trong những nhà khoa học tiên phong đặt nền móng cho ngành Quân y và Giải phẫu học Việt Nam. Cuộc đời ông là minh chứng cho sự cống hiến không ngừng nghỉ cho khoa học, đất nước và nhân dân.

GS Đỗ Xuân Hợp, cùng với các nhà khoa học tài năng như bác sĩ Vũ Văn Cẩn, GS.TS Nguyễn Thúc Tùng, GS Nguyễn Thế Khánh, GS.TSKH Bùi Đại, GS.TSKH Lê Thế Trung… đã xây dựng và phát triển ngành Quân y Việt Nam. Ông từng đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong kháng chiến chống Pháp: Quân y Viện trưởng Viện X, Viện trưởng Bệnh viện Việt Trì, Trưởng phòng Huấn luyện Cục Quân y, Hiệu trưởng trường Quân y sĩ Việt Bắc. Sau năm 1954, ông trở thành Chủ nhiệm Bộ môn Giải phẫu trường Đại học Y Hà Nội (1954-1985) và Giám đốc Đại học Quân y (nay là Học viện Quân y) từ 1960-1978.

Ông còn là một trong những người sáng lập Đảng Xã hội Việt Nam và là thành viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội từ 1946-1985. Trong lĩnh vực chuyên môn, GS Đỗ Xuân Hợp sáng lập Hội Hình thái học Việt Nam (27/10/1967) và giữ chức Chủ tịch kiêm Tổng biên tập báo Hình thái học trong 18 năm.

Từ Y Sĩ Đông Dương Đến Trợ Lý Giải Phẫu Tài Năng

GS Đỗ Xuân Hợp là tấm gương sáng về tinh thần tự học. Từ một y sĩ Đông Dương, ông đã vươn lên trở thành trợ lý giải phẫu, bác sĩ và nhà khoa học được giới y học nể trọng.

GS. Đỗ Xuân Hợp: Bắt đầu sự nghiệp từ một y sĩ Đông Dương.

Sinh ra trong gia đình trí thức ở Hà Nội, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Nho học, Đỗ Xuân Hợp sớm tiếp xúc với Tây học. Sau khi tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (1929), ông được cử làm Quan Đốc tại Bắc Hà, Lào Cai. Tại đây, ông khám chữa bệnh cho cả sĩ quan, binh lính Pháp và người dân địa phương.

GS. Đỗ Xuân Hợp (ngoài cùng bên phải) trong chuyến công tác tại Leningrat, Liên Xô, năm 1963.

Ông được cả binh lính Pháp và người dân yêu mến. Ông khám bệnh miễn phí cho người dân tộc thiểu số, thậm chí tự bỏ tiền túi mua thuốc cho họ. Biến cố xảy ra vào tháng 2/1932, khi một nhóm cướp tấn công cơ sở y tế nơi ông làm việc, khiến ông nảy sinh ý định về Hà Nội. Ông cùng vợ đăng ký học hàm thụ từ xa để thi lấy bằng tú tài toàn phần.

Bà Nguyễn Thị Thịnh, vợ ông, kể lại: “Bây giờ chỉ có cách học, học thêm rồi chờ thời… Bây giờ có tiền rồi, anh sẽ học thêm, học hàm thụ ở trường đại học hàm thụ Pháp ở Paris. Em sẽ cùng học với anh, hai chúng mình thi đua nhau cho vui, học một mình buồn lắm”.

Với sự động viên của vợ, ông gửi điện sang Pháp mua tài liệu ôn thi tú tài. Ông bà dành thời gian ôn luyện nghiêm túc, gửi bài sang Paris chấm và nhận lại những bài làm đã được chấm điểm, phê bình tỉ mỉ, kèm theo bài mẫu hướng dẫn.

Ít lâu sau, có thông báo tuyển trợ lý giải phẫu cho trường Đại học Y ở Hà Nội, mở ra cơ hội để ông trở về Hà Nội công tác. “Việc học của anh vất vả quá: vừa đi làm, vừa học thi tú tài, vừa học thi giải phẫu. Anh học cả chiều, cả tối,” bà Thịnh hồi tưởng.

Cuối năm 1932, hai vợ chồng về Hà Nội thi tuyển. Vượt qua 5 ứng viên, trong đó có 2 người Pháp, Đỗ Xuân Hợp đỗ đầu và trở thành trợ lý giải phẫu cho GS Pierre Huard, Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng trường Y khoa Đông Dương.

Sự Nghiệp Rực Rỡ Trong Ngành Giải Phẫu Học

GS. Đỗ Xuân Hợp (thứ 3 từ trái sang) cùng các đồng nghiệp trí thức trong kháng chiến.

Sau khi thi đỗ, ông làm trợ lý cho GS Pierre Huard vào buổi chiều và làm trợ lý cho GS Solier (người Pháp) tại Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt – Đức) về chuyên khoa Tai – Mũi – Họng vào buổi sáng. Buổi tối, ông tiếp tục học hàm thụ để thi tú tài. Nhờ chứng nhận của trường đại học hàm thụ Pháp, ông bà được dự thi tự do và đỗ tú tài năm 1933.

Từ năm 1934, ông chính thức làm trợ lý giải phẫu cho GS Pierre Huard. Cùng năm, ông có công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về giải phẫu. Đến năm 1944, ông đã công bố 88 công trình trên các tạp chí y học của Pháp.

Năm 1942, ông và GS Pierre Huard xuất bản cuốn sách Morphologie humaine et anatomie artistique (Hình thái học nhân thể và giải phẫu học nghệ thuật), tạo tiếng vang lớn trong giới y học thế giới. Cuốn sách trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho nhiều lĩnh vực như y học, mỹ thuật, nhân chủng học, khảo cổ học.

Hình ảnh Giáo sư Đỗ Xuân Hợp tại Đại học Y Hà Nội, năm 1976.

Danh tiếng của cuốn sách giúp bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được nhiều người biết đến. Ông được mời giảng dạy tại trường Đại học Y Hà Nội và trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, giúp gia đình ông cải thiện cuộc sống.

Việc một y sĩ Việt Nam được đứng tên ngang hàng với một giáo sư nổi tiếng trong một công trình khoa học tầm cỡ đã chứng minh năng lực của người Việt. Năm 1949, cuốn sách được Viện Hàn lâm Y học Pháp trao giải thưởng Testut, một giải thưởng lớn về y học và giải phẫu quốc tế.

Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp là người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng này. GS Tôn Thất Tùng là người Việt Nam thứ hai (1980) và là người thứ 10 trên thế giới được vinh dự này.

Giải thưởng Testut mang lại vinh dự lớn và giá trị vật chất đáng kể. Ông được mời sang Paris nhận thưởng với chi phí đi lại do chính phủ Pháp đài thọ và nhận 32.000 USD. Tuy nhiên, ông đã chọn ở lại Việt Bắc, chiến đấu và cứu chữa thương binh, viết sách và giảng dạy.

Cống Hiến Cho Nền Y Học Cách Mạng Việt Nam

GS. Đỗ Xuân Hợp (thứ 2 từ trái qua phải, hàng sau) trong thời gian công tác tại Bắc Hà, Lào Cai.

Ông dí dỏm kể lại: “Một đêm đông, tôi ngồi biên soạn sách bên ngọn đèn nhỏ. Vợ tôi đang lúi húi tráng bánh cuốn để sáng mai kịp bán hàng… Tôi mỉm cười, có ý dò xem ý tứ vợ ra sao, nhưng cô ấy lại thoăn thoắt tay xếp bánh, hình như không mấy quan tâm tới tin báo này.”

Ông đã từ bỏ danh lợi, hiến nhà, hiến xe cho cách mạng. Bà Nguyễn Thị Thịnh hiểu rõ lựa chọn của ông.

Ông cũng là người tiên phong giảng dạy bằng tiếng Việt tại trường Đại học Y, mở đường cho sinh viên tiếp thu khoa học mà không phụ thuộc vào ngoại ngữ.

Năm 1951, ông viết cuốn Giải phẫu tứ chi và thực dụng ngoại khoa bằng tiếng Việt, in trên giấy dó ở chiến khu Việt Bắc. Đây là cuốn giáo trình đầu tiên được viết bằng tiếng Việt, giúp cán bộ quân và dân y nâng cao kiến thức. Năm 1952, ông tiếp tục in cuốn Giải phẫu bệnh và thực dụng ngoại khoa. Những tài liệu này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao và Người đã tặng ông Huân chương Kháng chiến hạng Ba và một chiếc áo đũi có dòng chữ thêu: “Nhân dân Bắc Cạn kính dâng Hồ Chủ tịch!”

Sau hòa bình, ông hoàn chỉnh, bổ sung và viết mới thành bộ sách giải phẫu gồm 4 cuốn: Giải phẫu đại cương, Giải phẫu đầu mặt cổ, Giải phẫu thực dụng ngoại khoa tứ chi, Giải phẫu ngực, Giải phẫu bụng. Đây là những cuốn sách gối đầu giường của sinh viên ngành giải phẫu Việt Nam.

Từ năm 1934 đến năm 1985, GS Đỗ Xuân Hợp đã công bố 125 công trình về nhân trắc học và hình thái học người Việt Nam. Công trình Giải phẫu mô tả và nhân trắc học người Việt Nam (1950-1971) được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật đợt đầu tiên (1996).

Người Cộng Sản Không Ở Trong Đảng

Trong những ngày cuối đời tại Viện Quân y 108, GS Đỗ Xuân Hợp được phong quân hàm Thiếu tướng và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông là vị tướng quân đội hiếm hoi không ở trong hàng ngũ của Đảng. Ông từng gặp Bác Hồ khi xin vào Đảng Lao động Việt Nam và được Bác khuyên: “Chú Hợp là người cộng sản không ở trong Đảng.”

Bác sĩ Vũ Duy San, học trò của ông, đánh giá: “Sự vĩ đại của một con người khoa học chưa hẳn là những học hàm hay học vị mà có thể lại là sự cống hiến cao nhất, nhiều nhất, trong sáng nhất của người đó cho xã hội, cho khoa học… Thầy của chúng ta xứng đáng là một anh hùng.”

GS Đỗ Xuân Hợp là biểu tượng của sự cống hiến và tinh thần tự học, người đặt nền móng cho ngành Quân y và Giải phẫu học Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

  • Hồi ký viết tay của bà Nguyễn Thị Thịnh.
  • Nguyễn Ngọc Phúc, 25 tướng lĩnh Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2010.
  • Bài phát biểu của bác sĩ Vũ Duy San trong lễ kỷ niệm 1 năm ngày mất của GS Đỗ Xuân Hợp.