Nhà Thờ Bùi Chu: Hơn Cả Một Di Sản, Là Lịch Sử Máu Và Nước Mắt

Câu chuyện nhà thờ Bùi Chu đang gây tranh cãi về việc phá bỏ hay xây mới, trùng hợp với dịp kỷ niệm 65 năm người miền Bắc di cư vào Nam (1954 – 2019) theo tiếng gọi tự do.

Những tranh luận xoay quanh nhà thờ Chánh tòa Bùi Chu (Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định) như một di sản, một công trình lịch sử từ năm 1884 do Giám mục người Tây Ban Nha Wenceslao Onate Thuận xây dựng, thực chất ẩn chứa một câu chuyện sâu sắc về niềm tin, máu, nước mắt và những oan khiên. Đó không chỉ là câu chuyện riêng của người Công giáo, mà còn là một phần của lịch sử Việt Nam.

Người ta thường nhắc đến những khó khăn của người ở lại miền Bắc sau năm 1954, như Cải cách ruộng đất, các vụ án xét lại chống Đảng, chiến dịch Nhân văn – Giai phẩm. Tuy nhiên, ít tài liệu nào ghi lại cuộc sống của những linh mục, giáo dân chọn ở lại miền Bắc trong giai đoạn đó, cho đến năm 1975.

Từ tháng 7/1954, dòng người di cư diễn ra sau khi đất nước bị chia cắt. Theo ước tính trong cuốn “Peacemaking in Vietnam” của Ramesh Thakur, khoảng một triệu người từ miền Bắc Việt Nam đã di cư vào Nam vì không chấp nhận chế độ cộng sản, trong khi chỉ có khoảng 4.500 người từ Nam ra Bắc. Đa phần những người này được gọi là dân tập kết. Tuy nhiên, đây chỉ là số liệu thống kê đến hết tháng 7/1955. Số lượng người vượt biên từ Bắc vào Nam sau đó chưa được thống kê đầy đủ.

Trong số những giáo dân di cư vào Nam, nhiều người đến từ Bùi Chu – Phát Diệm. Hơn ai hết, họ đã hiểu rõ về cộng sản từ năm 1945. Giám mục Lê Hữu Từ (tấn phong tháng 10/1945) đã nhận ra sự hiện diện của Quốc tế Cộng sản đằng sau Mặt trận Việt Minh. Do đó, ngài đã sớm ủng hộ tổ chức Việt Nam Công giáo Cứu Quốc, nhằm tách biệt với những người cộng sản, đặc biệt trong bối cảnh người Việt Nam đều mong muốn kháng Pháp để giành độc lập.

Đó không chỉ là suy đoán. Tài liệu nghiên cứu (2009) từ Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn, do Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn tổ chức từ năm 2007, ghi lại rằng Đức cha Lê Hữu Từ đã công khai tách bạch giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, khi về Phát Diệm để hòa hoãn với Đức cha Lê Hữu Từ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghe trực tiếp lời tuyên bố của Đức cha: “Tôi và toàn dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt để ủng hộ Cụ trong công cuộc chống thực dân Pháp, giành độc lập cho tổ quốc Việt Nam. Nhưng nếu Cụ là Cộng sản thì tôi chống Cụ, và chống Cụ từ phút này”. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ông Hồ Chí Minh không thừa nhận mình là người cộng sản. Thậm chí, ông còn nói với Đức cha Lê Hữu Từ rằng sẽ có một cuộc phổ thông đầu phiếu để “toàn dân sẽ định đoạt, Cụ và tôi khỏi phải lo”.

Tuy nhiên, cuộc phổ thông đầu phiếu đúng nghĩa đó đã không bao giờ diễn ra ở miền Bắc sau năm 1954 và trên cả nước sau năm 1975.

Hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm nằm cạnh nhau nên có nhiều điểm tương đồng về đạo và đời. Cả hai nơi này đều có chung một lãnh tụ tinh thần của người Công giáo miền Bắc từ năm 1954 đến 1967, đó là ngài Thaddeus Lê Hữu Từ, Giám quản Tông tòa hạt đại diện của cả hai khu vực này qua các thời kỳ.

Mâu thuẫn giữa tổ chức Việt Nam Công giáo Cứu Quốc và Việt Minh ngày càng gia tăng, dẫn đến những xung đột vũ trang. Theo tài liệu “Battle of Indo-China” của Gibbs, Đức cha Lê Hữu Từ đã xây dựng một đội dân quân kháng Pháp và bảo vệ giáo dân trước Việt Minh, với số lượng ước tính lên đến 6.000 người. Ông Ngô Cao Tùng, một thiếu tá có gốc từ Việt Nam Quốc Dân Đảng, được biết đến là người ủng hộ và hỗ trợ ngài về mặt chiến sự. Lực lượng vũ trang của ông Tùng được ước tính có khoảng 1.700 người.

Tình cảnh này tương tự như Phật giáo Hòa Hảo ở miền Nam Việt Nam. Một mặt, họ chống Pháp để đòi độc lập, nhưng mặt khác, những người yêu nước phải luôn cảnh giác trước nguy cơ Việt Minh tiêu diệt để thống nhất lực lượng dưới chủ nghĩa cộng sản. Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập đạo Hòa Hảo, đã thành lập Lực lượng Vũ Trang Hòa Hảo (1945), tiền thân là Đội Bảo An, sau đó có thêm lực lượng Hòa Hảo Dân Xã của tướng Trần Văn Soái (Năm Lửa) sát nhập vào để bảo vệ mình và tham gia kháng Pháp.

Tháng 10/1949, quân Pháp bất ngờ nhảy dù xuống đồng Lưu Phương, gần khu an toàn Phát Diệm, khiến không ai kịp trở tay. Vì lý do này, Việt Minh coi hai vùng Bùi Chu – Phát Diệm là ngầm theo Pháp chống lại Việt Minh. Đây là một âm mưu chính trị, và sau năm 1954, những người Công giáo ở Bùi Chu – Phát Diệm còn ở lại miền Bắc phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn dưới sự kiểm soát của chính quyền cộng sản.

Theo tài liệu “Thái độ của các Giám Mục miền Bắc đối với Cộng sản từ 1945 đến 1954” do nhà chép sử Công giáo Vũ Sinh Hiên ghi lại, dù ở trong vùng Pháp kiểm soát, Đức cha Lê Hữu Từ vẫn luôn bày tỏ sự bất mãn và chống đối công khai với người Pháp và vua Bảo Đại. Năm 1951, nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh thánh Jean Baptiste de la Salle, Đức cha Lê Hữu Từ đã đọc một bài diễn văn mạnh mẽ, tuyên bố rằng “Người Pháp hãy ở yên tại Paris và Bảo Đại nên về lại Sài Gòn”.

Tuy nhiên, đến năm 1954, khi người Pháp rời khỏi Bắc Việt, bắt đầu cuộc chia đôi đất nước, các giáo phận Bùi Chu – Phát Diệm vẫn phải đối mặt với sự thù địch từ chế độ mới. Các linh mục bị truyền thông nhà nước Marxist gọi là “những con quạ đen”. Một chương mới đầy đau khổ đã mở ra. Một giai đoạn lịch sử vừa hào hùng, vừa đau đớn của người Công giáo miền Bắc đã in dấu trên mảnh đất họ sinh sống, trên tiếng chuông nhà thờ và những phiến đá nham nhở, yếu ớt của các thánh đường, như thánh đường Bùi Chu.

Đó là một phần của câu chuyện dài, để giải thích thêm về ý nghĩa lịch sử của Bùi Chu – Phát Diệm.

Câu chuyện nhà thờ Bùi Chu không chỉ là về một công trình kiến trúc, mà còn là về lịch sử, niềm tin và những gian truân mà người Công giáo miền Bắc đã trải qua. Việc bảo tồn hay xây mới nhà thờ cần được xem xét một cách thấu đáo, để không chỉ bảo tồn di sản vật chất mà còn gìn giữ những giá trị tinh thần và lịch sử sâu sắc.