Bệnh viện C Đà Nẵng, tiền thân là đơn vị còn lại của Ban dân y Khu Trung Trung Bộ (Khu 5 cũ) và các Bệnh viện 1, Bệnh viện 2, Khu ủy khu 5, đã trải qua một lịch sử đầy tự hào. Sau ngày giải phóng vào tháng 3 năm 1975, Ban Dân y Khu 5, Bệnh viện 1, Bệnh viện 2 cùng với các nhân viên y tế tiếp quản toàn bộ Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng (do hội MALTERSER CHLB Đức xây dựng năm 1968). Bệnh viện này vốn là một bệnh viện dã chiến chuyên về ngoại khoa, tọa lạc trên khu đất rộng hơn 5 héc-ta giữa trung tâm thành phố Đà Nẵng. Thường vụ khu ủy 5 quyết định sử dụng Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng để chăm sóc sức khỏe cán bộ Khu 5 và đổi tên thành Bệnh viện C.
Ngày 26 tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Văn Cẩn ký quyết định 515-QĐ/BYT thành lập bệnh viện phục vụ sức khỏe cán bộ khu Trung Trung bộ (cũ) trên cơ sở Bệnh viện Việt Đức vừa được tiếp quản, và vẫn giữ nguyên tên Bệnh viện C Đà Nẵng. Từ đó đến nay, Bệnh viện C Đà Nẵng trực thuộc Bộ Y tế, có trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho cán bộ trung, cao cấp từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh Hòa và các tỉnh Tây Nguyên. Sau này, bệnh viện còn được giao thêm nhiệm vụ là Phân Hội đồng Giám định y khoa Trung ương II tại Đà Nẵng.
Ban lãnh đạo Bệnh viện thời kỳ đầu gồm có Bác sĩ Trúc Lam (Trần Nhật Thăng) giữ chức Giám đốc, Bác sĩ Nguyễn Văn Tấn là Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc và Bác sĩ Lê Mai là Phó Giám đốc.
Mục Lục
Giai đoạn 1976 – 1985: Khắc phục hậu quả chiến tranh
Trong giai đoạn từ 1976 đến 1985, ban lãnh đạo Bệnh viện gồm có Giám đốc là Bác sĩ Lê Ngoạn, Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc là đồng chí Đào Thiệt, và hai Phó Giám đốc là Bác sĩ Lê Tấn Thái và Tiến sĩ Phạm Đình Kiên.
Trong giai đoạn này, bệnh viện hoạt động theo mô hình các bệnh viện miền Bắc, tập trung vào việc giải quyết hậu quả của chiến tranh. Cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế còn hạn chế và đơn giản.
Thời điểm này, Bệnh viện C Đà Nẵng là một trong những bệnh viện thuộc hệ thống bảo vệ sức khỏe cán bộ, thực hiện khám và điều trị cho các đối tượng theo quy định tại công văn số 1467BYT/BVSK ban hành ngày 29 tháng 3 năm 1984.
Giai đoạn 1986 – 1997: Vượt qua khó khăn thời kỳ đổi mới
Từ năm 1986 đến 1997, Bệnh viện C Đà Nẵng được lãnh đạo bởi Giám đốc Bác sĩ Lê Tấn Thái, Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc Bác sĩ Đặng Hạnh, và Phó Giám đốc Bác sĩ Trần Luật.
Đất nước bước vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, mang theo nhiều khó khăn và thách thức cho sự phát triển. Cơ sở vật chất và nhà cửa của bệnh viện xuống cấp nghiêm trọng, trong khi kinh phí được cấp lại rất hạn hẹp.
Đối diện với những khó khăn này, bệnh viện xác định trọng tâm là cùng với các tỉnh xây dựng mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cán bộ viên chức nhà nước, cán bộ lão thành cách mạng, giải quyết hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, và kiến nghị giải quyết chính sách đối với người có công với cách mạng.
Bệnh viện C Đà Nẵng đã giữ vững và phát huy truyền thống, không ngừng phấn đấu để thực hiện chức năng nhiệm vụ mà Bộ Y tế giao phó. Bệnh viện đoàn kết, chống lại mọi biểu hiện tiêu cực, và vươn lên trong những thời điểm khó khăn nhất để chăm lo công tác bảo vệ sức khỏe cán bộ một cách hiệu quả nhất.
Tháng 1 năm 1997, Giáo sư Đỗ Nguyên Phương, Bộ trưởng Bộ Y tế, tái khẳng định rằng Bệnh viện C Đà Nẵng vẫn là một trong những bệnh viện thuộc hệ thống bảo vệ sức khỏe cán bộ trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế.
Giai đoạn 1997 – 2007: Đầu tư và nâng cấp cơ sở vật chất
Trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2007, Bệnh viện C Đà Nẵng trải qua hai thời kỳ lãnh đạo. Từ năm 1997 đến 2002, ban lãnh đạo gồm có Giám đốc Bác sĩ CK 1 Phạm Xân, Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc Dược sĩ CK 1 Châu Quang Song, và hai Phó Giám đốc là Bác sĩ CK 2 Nguyễn Thị Ánh Tuyết và Bác sĩ CK 2 Hồ Thị Anh Hoa. Từ năm 2003 đến 2007, ban lãnh đạo gồm có Giám đốc Bác sĩ CK 1 Phạm Xân, Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc Dược sĩ CK 1 Châu Quang Song, Phó Giám đốc TS.BS. Nguyễn Hữu Quốc Nguyên, và Phó Giám đốc Bác sĩ CK 2 Võ Thị Hà Hoa.
Trong giai đoạn này, bệnh viện được Bộ Y tế đầu tư dự án nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất và trang thiết bị. Nhờ đó, bộ mặt của Bệnh viện có sự đổi mới, khang trang hơn. Bệnh viện xây dựng mới được 3 khối nhà từ 3 đến 5 tầng, và trang bị thêm một số máy móc hiện đại như máy CT scanner, hệ thống điện tim gắng sức, hệ thống phẫu thuật mắt Phaco, và thận nhân tạo.
Ngày 19 tháng 3 năm 2003, Khoa Nội A (Nội cán bộ) được thành lập để điều trị cho cán bộ cao cấp các tỉnh Miền Trung – Tây Nguyên.
Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/BYT về tăng cường công tác chăm sóc bệnh nhân toàn diện, cán bộ nhân viên bệnh viện đã có nhiều cố gắng trong việc chăm lo sức khỏe người bệnh nằm viện, đặc biệt là những cán bộ lão thành cách mạng.
Bệnh viện C Đà Nẵng được xếp hạng Bệnh viện hạng I từ năm 2002.
Giai đoạn 2007 – Nay: Phát triển toàn diện và chuyên sâu
Giai đoạn từ năm 2007 đến nay chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của Bệnh viện C Đà Nẵng. Từ 2007-2010, Giám đốc là TS.BS. Nguyễn Hữu Quốc Nguyên, Bí thư Đảng ủy – Phó Giám đốc là TS.BS. Võ Thị Hà Hoa, Phó giám đốc là Bác sĩ CKII. Nguyễn Tường Vân và sentayho.com.vn. Nguyễn Trọng Thiện. Từ 2010-2013, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc là TS.BS. Nguyễn Hữu Quốc Nguyên, các Phó Giám đốc là TS.BS. Võ Thị Hà Hoa, BSCKII. Nguyễn Tường Vân và sentayho.com.vn. Nguyễn Trọng Thiện. Và từ 2013 đến nay, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc là BSCKII. Nguyễn Tường Vân, các Phó Giám đốc là TS.BS. Võ Thị Hà Hoa và sentayho.com.vn. Nguyễn Trọng Thiện.
Đây là giai đoạn Bệnh viện có một đội ngũ lãnh đạo trẻ trung, năng động, nhiệt tình và dám nghĩ dám làm, với mong muốn đưa bệnh viện nhanh chóng phát triển. Sự nỗ lực này được Lãnh đạo Bộ Y tế và Thành ủy Đà Nẵng đánh giá cao. Đây thực sự là giai đoạn bùng nổ và tăng trưởng nhanh chóng của bệnh viện về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị. Bệnh viện đã thực hiện tốt chủ trương của Bộ Y tế về nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh, được đầu tư mua sắm các trang thiết bị y tế hiện đại, và chú trọng vào việc khai thác hiệu quả các thiết bị này để phục vụ công tác hiện đại hóa quy trình kỹ thuật y khoa. Bệnh viện cũng tận dụng cơ hội để đào tạo một đội ngũ cán bộ có khả năng làm chủ và khai thác hết các tính năng kỹ thuật của trang thiết bị. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn (trên 70% bác sĩ có trình độ sau đại học), y đức và phẩm chất chính trị.
Năm 2013, Bệnh viện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Khu nhà đa chức năng 11 tầng với diện tích sử dụng thêm trên 22.000 m2, cơ sở vật chất khang trang, sạch đẹp, phục vụ người bệnh ngày càng tốt hơn.
Đầu năm 2015, Bệnh viện triển khai hoạt động của Trung tâm Ung bướu và đầu năm 2016 cũng đã đưa vào hoạt động Trung tâm Đột quỵ, đây là trung tâm đột quỵ đầu tiên ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Với sự ra đời của các trung tâm lâm sàng chuyên khoa sâu này, bệnh viện đã khẳng định được sự phát triển vững mạnh về mặt chuyên khoa sâu và đa khoa diện rộng, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của cán bộ và nhân dân các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên.
Bệnh viện đã triển khai thêm được nhiều kỹ thuật cao về lâm sàng và cận lâm sàng ngang tầm với các bệnh viện đầu ngành ở hai đầu đất nước như phẫu thuật nội soi cột sống, phẫu thuật nội soi tiêu hóa và nội soi lồng ngực, phẫu thuật thay khớp háng toàn phần, phẫu thuật thay khớp gối toàn phần, phẫu thuật cắt khối tá tụy, cắt toàn bộ thực quản-dạ dày, cắt thận, cắt gan… Về các thủ thuật trong nội khoa cũng được đẩy mạnh phát triển, Bệnh viện đã triển khai kỹ thuật chụp và can thiệp động mạch vành, đến nay kỹ thuật cao này đã được thực hiện thường quy và cứu sống nhiều bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp. Bên cạnh đó các kỹ thuật về nội soi cắt đốt polyp đường tiêu hóa, mở thông dạ dày qua da, nội soi phế quản can thiệp đã được triển khai thường quy. Bệnh viện cũng đã triển khai nhiều xét nghiệm cận lâm sàng cao cấp phục vụ thiết thực cho công tác chẩn đoán và điều trị bệnh, đặc biệt là những xét nghiệm chẩn đoán sớm ung thư.
Nhờ đó, uy tín bệnh viện ngày một nâng cao, thật sự đã trở thành địa chỉ tin cậy để người bệnh an tâm đến khám và điều trị thể hiện qua qui mô giường bệnh từ 280 giường/năm (2005) lến đến 600 gường bệnh /năm (2013) và đến năm 2016 là 750 giường, chưa kể số giường bệnh xã hội hóa.
Với những thành tích đạt được, Bệnh viện C Đà Nẵng đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý:
- Huân chương Lao động hạng Ba (1985).
- Huân chương Lao động hạng Nhì (1998).
- Huân chương Lao động hạng Nhất (2003).
- Huân chương Độc lập hạng Ba (2009).
- Huân chương Độc lập hạng Nhì (2013).
- Nhiều năm liền được Bộ Y tế công nhận là đơn vị xuất sắc toàn diện.
- Công đoàn cơ sở Bệnh viện C Đà Nẵng vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (2013).
- Nhiều tập thể khoa, phòng và cá nhân được tặng Bằng khen của các Bộ ngành trung ương và địa phương về thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ.
- Nhiều cá nhân được phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Ưu tú.
Hướng phát triển chuyên môn đến năm 2020
Bệnh viện C Đà Nẵng xác định mục tiêu trọng tâm là tập trung đầu tư hiện đại hóa quy trình kỹ thuật y khoa, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cán bộ và nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, đồng thời hòa nhập với nhịp độ phát triển của các bệnh viện lớn trong nước và trong khu vực. Bệnh viện sẽ xây dựng và đầu tư phát triển các chuyên khoa, đáp ứng tiêu chuẩn bệnh viện đa khoa làm công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cán bộ khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, và nâng tổng số giường bệnh viện lên 1.000 giường.
Bệnh viện sẽ phát triển các chuyên ngành sâu về Hồi sức tích cực – Chống độc, Tim mạch, Thần kinh, Hô hấp, Tiêu hóa, Thận nhân tạo, Phục hồi chức năng, Đột quỵ, Ung bướu; các chuyên khoa ngoại như Ngoại tổng quát (phát triển phẫu thuật nội soi về tiêu hóa gan mật, tiết niệu, ung thư, nội soi khớp,…), Ngoại Chấn thương-Thần kinh, Tim mạch can thiệp, Phẫu thuật tim mạch. Triển khai các các kỹ thuật cao về cận lâm sàng như labo chuẩn hóa về Huyết học, Hóa sinh, Vi sinh, Giải phẫu bệnh lý, Thăm dò chức năng và Chẩn đoán hình ảnh.
Đến cuối năm 2016, Bệnh viện đã hoàn thành việc đầu tư đồng bộ một hệ thống trang thiết bị y tế hiện đại, kỹ thuật cao từ Dự án “Phát triển bệnh viện tỉnh, vùng – giai đoạn II”, bao gồm máy Gia tốc tuyến tính, MRI 3.0 Tesla, CTscan 128 lát cắt, DSA, Ôxy cao áp, Siêu âm xuyên sọ, Phẫu thuật tim hở, ECMO, Phẫu thuật nội soi, Máy chụp nhũ ảnh, Phẫu thuật soi treo thanh quản, và Máy đo hô hấp kế toàn thân.
Bệnh viện cũng xây dựng đề án thành lập và phát triển các trung tâm chuyên sâu như Trung tâm Tim mạch, Trung tâm Hồi sức tích cực – Chống độc, Trung tâm Chấn thương chỉnh hình, và Trung tâm kỹ thuật cao, nhằm tạo nên một bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh, ngang tầm với nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cán bộ trong thời kỳ mới.
Cuối cùng, Bệnh viện C Đà Nẵng sẽ hoàn thiện hệ thống quản lý bệnh viện bằng công nghệ thông tin, kết nối và truyền tải dữ liệu bằng hình ảnh để phục vụ chuyên môn, quản lý bệnh nhân, quản lý kinh tế y tế, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Bệnh viện cũng sẽ nghiên cứu phát triển kỹ thuật y khoa, đáp ứng dịch vụ khám chữa bệnh, nghiên cứu mối quan hệ công – tư, quan hệ bệnh viện – bệnh viện, quan hệ bệnh viện – trường đại học y khoa, và nghiên cứu giải quyết các vấn đề kinh tế trong y tế.
Giám đốc
Nguyễn Tường Vân