Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá khái niệm tích lũy tư bản là gì, đi sâu vào bản chất của nó và phân tích các quy luật chi phối quá trình này trong nền kinh tế hiện đại.
Tích lũy tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
Mục Lục
1. Hiểu Rõ Về Tích Lũy Tư Bản
1.1. Tư Bản – Không Chỉ Là Tư Liệu Sản Xuất
Trong kinh tế học, khái niệm “tư bản” thường gây ra nhiều tranh luận. Một số nhà kinh tế cho rằng mọi công cụ lao động và tư liệu sản xuất đều là tư bản. Tuy nhiên, cách hiểu này có thể che giấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, tạo cảm giác rằng tư bản là một phạm trù vĩnh viễn, không thay đổi trong mọi hình thái xã hội.
Thực tế, tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi chúng thuộc sở hữu của nhà tư bản và được sử dụng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, tư liệu sản xuất đơn thuần chỉ là công cụ phục vụ sản xuất, không còn mang bản chất tư bản. Do đó, tư bản là một phạm trù có tính lịch sử, gắn liền với một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
“Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thông qua việc bóc lột công nhân làm thuê.” Nó thể hiện mối quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, trong đó nhà tư bản sở hữu tư liệu sản xuất và bóc lột công nhân để tạo ra giá trị thặng dư.
1.2. Tích Lũy Tư Bản – Động Lực Của Tăng Trưởng
Tích lũy tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm, hay còn gọi là tư bản mới. Nói cách khác, đó là việc sử dụng lợi nhuận thu được để tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất.
Để mở rộng sản xuất, nhà tư bản không thể tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà phải chia nó thành hai phần: một phần để tích lũy, tái đầu tư và mở rộng sản xuất; phần còn lại dành cho tiêu dùng cá nhân và gia đình. Tỷ lệ phân chia này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tích lũy tư bản và quy mô sản xuất trong tương lai.
2. Bản Chất Của Tích Lũy Tư Bản: Tái Sản Xuất Mở Rộng
2.1. Tái Sản Xuất Giản Đơn và Tái Sản Xuất Mở Rộng
Bất kể hình thái xã hội nào, quá trình sản xuất luôn mang tính liên tục và lặp lại theo chu kỳ. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, do đó cũng không thể ngừng sản xuất. Mọi quá trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại với quy mô không đổi. Trong khi đó, tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại với quy mô ngày càng lớn hơn. Muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải mua thêm tư liệu sản xuất và thuê thêm công nhân. Điều này đòi hỏi một phần giá trị thặng dư phải được tích lũy để đầu tư vào các yếu tố sản xuất.
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản. Hình thức tiến hành đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng, tạo ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất, sức lao động và tác động đến môi trường sống của con người.
2.2. Tích Lũy Tư Bản – Tư Bản Hóa Giá Trị Thặng Dư
Thực chất của tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư, tức là biến giá trị thặng dư thành tư bản. Cụ thể hơn, tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.
Giá trị thặng dư không chỉ được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản mà còn là nguồn vốn để tích lũy. Để tích lũy, một phần sản phẩm thặng dư phải được chuyển hóa thành tư bản, bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cho công nhân. Nói cách khác, giá trị thặng dư có thể biến thành tư bản vì sản phẩm thặng dư đã bao gồm các yếu tố vật chất của một tư bản mới.
Nghiên cứu về tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản cho thấy:
- Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư, và tư bản tích lũy chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.
- Quá trình tích lũy làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản không chỉ chiếm một phần lao động của công nhân mà còn trở thành người sở hữu hợp pháp lao động không công đó, dẫn đến sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu.
3. Quy Luật Tích Lũy Tư Bản: Động Lực và Hậu Quả
3.1. Cầu Về Lao Động Tăng Theo Tích Lũy Tư Bản (Kết Cấu Tư Bản Không Đổi)
3.1.1. Gia Tăng Nhu Cầu Lao Động
Khi tư bản tăng lên, bộ phận khả biến (dùng để trả lương cho người lao động) cũng tăng theo. Giả sử các yếu tố khác không đổi, để vận hành một khối lượng tư liệu sản xuất nhất định, luôn cần một lượng sức lao động tương ứng. Do đó, nhu cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của tư bản. Tích lũy tư bản làm gia tăng giai cấp vô sản.
3.1.2. Tăng Lương Không Cản Trở Tích Lũy Tư Bản
Tiền lương, dù tăng, vẫn đòi hỏi người lao động cung cấp một lượng lao động không công nhất định. Việc tăng lương, trong trường hợp tốt nhất, chỉ làm giảm bớt phần lao động không công mà người lao động phải cung cấp. Sự giảm bớt này không bao giờ đe dọa sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nếu khối lượng lao động không công do công nhân cung cấp và được nhà tư bản tích lũy tăng lên nhanh chóng, tiền lương sẽ tăng lên. Tuy nhiên, khi sự giảm xuống của lao động không công chạm đến mức mà nó không còn cung cấp đủ cho tích lũy tư bản, sẽ có một sự phản ứng: tích lũy chững lại và tiền lương sẽ giảm trở lại. Sự tăng lên của giá cả lao động không vượt quá giới hạn bảo đảm sự tái sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa với quy mô mở rộng.
3.2. Giảm Tỷ Lệ Tư Bản Khả Biến: Hệ Quả Của Tích Lũy
Trong quá trình tích lũy, sự phát triển của năng suất lao động xã hội trở thành đòn bẩy mạnh mẽ nhất. Năng suất lao động tăng lên dẫn đến giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất. Sự thay đổi này trong kết cấu kỹ thuật của tư bản làm tăng thêm bộ phận bất biến (tư liệu sản xuất) và giảm bớt bộ phận khả biến (sức lao động).
Tuy nhiên, sự giảm bớt phần khả biến của tư bản so với phần bất biến chỉ phản ánh gần đúng sự biến đổi trong kết cấu vật chất của tư bản. Cùng với sự tăng lên của năng suất lao động, giá trị của tư liệu sản xuất so với khối lượng của nó cũng giảm xuống. Do đó, sự chênh lệch giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến tăng lên chậm hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa khối lượng tư liệu sản xuất và khối lượng sức lao động.
Mặc dù tích lũy làm giảm tỷ lệ tương đối của bộ phận tư bản khả biến, nó không loại trừ sự tăng lên về mặt tuyệt đối của bộ phận này. Nếu tổng tư bản tăng lên đáng kể, phần khả biến của nó vẫn có thể tăng lên, mặc dù với tốc độ chậm hơn.
Mọi tư bản đều là sự tích tụ tư liệu sản xuất và sự chỉ huy đối với một đội quân lao động. Tích lũy tạo điều kiện cho tích lũy mới. Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội nhưng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao.
3.3. Gia Tăng Dân Số Thừa Tương Đối: Hệ Quả Không Thể Tránh Khỏi
3.3.1. Dân Số Thừa – Sản Phẩm Của Tích Lũy
Nhu cầu về lao động không do quy mô của tổng tư bản quyết định mà do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định. Cùng với sự tăng lên của tổng tư bản, nhu cầu về lao động giảm dần chứ không tăng lên theo tỷ lệ tương ứng.
Cùng với tích lũy tư bản, nhân khẩu công nhân cũng tạo ra những phương tiện khiến họ trở thành nhân khẩu thừa tương đối. Đây là quy luật nhân khẩu thừa riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
3.3.2. Dân Số Thừa – Đòn Bẩy Của Tích Lũy
Dân số công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích lũy. Ngược lại, nhân khẩu thừa này trở thành đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Số nhân khẩu đó tạo thành một đội quân công nghiệp trừ bị, hoàn toàn thuộc về tư bản.
Khi quy mô của cải xã hội phình to, nó có thể biến thành tư bản phụ thêm và đổ xô vào những ngành sản xuất cũ hoặc mới. Trong những trường hợp như vậy, cần phải có một lượng lớn lao động sẵn sàng để đáp ứng nhu cầu sản xuất mà không làm giảm bớt quy mô sản xuất ở các lĩnh vực khác. Nhân khẩu thừa cung cấp nguồn lao động này.
Việc mở rộng và thu hẹp quy mô sản xuất diễn ra một cách đột ngột. Sự thu hẹp tạo ra sự mở rộng, nhưng sự mở rộng không thể thực hiện được nếu không có một nguồn sức người để bóc lột. Toàn bộ hình thức vận động của nền công nghiệp hiện đại đều dựa trên sự thường xuyên biến một bộ phận của nhân khẩu công nhân thành những người không có việc làm hoặc chỉ có việc làm một nửa. Việc sản xuất nhân khẩu thừa tương đối là điều kiện sống còn của nền công nghiệp hiện đại.