Giải Mã Ý Nghĩa Văn Miếu: Từ Thờ Khổng Tử Đến Tín Ngưỡng Dân Gian

Bài viết trên Đài RFA “Văn miếu xưa và nay” đã nêu bật thực trạng xây dựng Văn miếu ồ ạt tại nhiều địa phương ở Việt Nam, nhưng lại gặp khó khăn trong việc xác định vị trí thờ cúng. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện chỉ rõ tình trạng lãng phí khi các công trình Văn miếu hàng trăm tỷ đồng bị bỏ không do không tìm được đối tượng thờ phù hợp. Liệu việc xây dựng Văn miếu có thực sự phù hợp với bối cảnh văn hóa và tín ngưỡng hiện nay?

Chữ “Văn” Trong Văn Miếu Mang Ý Nghĩa Gì?

Vào năm Khai Nguyên thứ 27, vua Đường Huyền Tông truy phong Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, từ đó những nơi thờ Khổng Tử được gọi là Văn Tuyên Vương miếu. Đến đời nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424), cụm từ này được rút gọn thành “Văn miếu”. Như vậy, hai chữ “Văn miếu” dùng để chỉ nơi thờ tự Khổng Tử, du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XV.

Cách dịch “Văn miếu” sang tiếng Pháp là Temple de la littérature (Miếu Văn chương), tiếng Anh là Literature Temple (Đền thờ Văn học). Học giả Madrolle dịch là Temple de la culture littéraire (Miếu Văn hóa có tính văn chương). Nhà báo Hữu Ngọc cho rằng cách dịch của Madrolle sát nghĩa hơn.

Vậy chữ “Văn” trong “Văn miếu” có phải là “văn chương” hay “văn học” không? Thực tế, “Văn miếu” là cách gọi tắt của “Văn Tuyên vương miếu”, trong đó “Văn Tuyên vương” là thụy hiệu của Khổng Tử do vua Đường Huyền Tông truy tặng.

Thụy hiệu là tên đặt cho người đã khuất, dựa trên hành vi khi còn sống. Sách Luận ngữ, thiên Công Dã Tràng, ghi lại cuộc đối thoại giữa Tử Cống và Khổng Tử: “Tử Cống hỏi: ‘Khổng Văn tử, sao lại gọi là Văn?’. Khổng Tử đáp: ‘Minh mẫn mà hiếu học, không hổ thẹn khi hỏi người dưới, vì vậy gọi là Văn'”.

Thời nhà Trần, vua Trần Nghệ Tông ban thụy hiệu Văn Trinh công cho Chu Văn An. Triều Nguyễn quy định quan văn chánh nhất phẩm khi mất được ban thụy hiệu Văn Nghị, quan văn tòng nhất phẩm là Văn Ý.

Hiện nay, việc dịch chữ “Văn” trong “Văn miếu” sang tiếng nước ngoài chưa thể hiện hết ý nghĩa của chữ “Văn” trong thụy hiệu của Khổng Tử.

Nguyễn Văn Tú cho rằng ý nghĩa chữ “Văn” trong “Văn miếu” ở Văn miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội khác với ý nghĩa “Văn miếu” ở Trung Quốc: “Nơi này được gọi là Văn miếu, hoàn toàn không theo cách gọi của Trung Quốc (gọi tắt Văn Tuyên vương miếu) mà đây là miếu thờ những người tuyên truyền, xây dựng lên cái Văn, trong đó có Chu công, Khổng tử các hiền triết của Nho giáo, đây là miếu thờ ‘Văn’ với nghĩa của từ Văn như trích dẫn ở trên (điển chương, chế độ, lễ nhạc, nghi thức, giáo hóa…)”. Theo ông, Văn miếu thờ cả Chu Công, người được Khổng Tử coi là đã thực hiện và phát triển lễ tiết, giáo hóa, điển chương một cách mẫu mực.

Tuy nhiên, cách giải thích này có phần khiên cưỡng, vì chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Nho giáo Việt Nam.

Năm Dân Quốc thứ 3 (1914), Lễ Chế Quán của nhà nước Trung Hoa Dân Quốc phục hồi từ “Khổng Tử miếu”, dịch sang tiếng Pháp là Temple de Confucius (Miếu Khổng Tử), hoàn toàn chính xác về ý nghĩa.

Văn Miếu Thờ Ai?

Văn miếu Trấn Biên (Biên Hòa – Đồng Nai) đã thay đổi thiết chế thờ tự sau khi phục dựng. PGS. TS. Đặng Văn Bài nhận định: “UBND tỉnh Đồng Nai quyết định xây dựng lại Văn miếu Trấn Biên với tư cách là một thiết chế đặc thù – nơi thờ và tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các danh nhân văn hóa của đất nước và địa phương, trong đó có phối thờ Khổng tử với tư cách là người sáng lập Nho giáo”.

Việc Khổng Tử chỉ được “phối thờ” ở Văn miếu Trấn Biên, trong khi ông Hồ Chí Minh được thờ ở chính điện, tạo nên sự lạ lẫm. Ông Hồ Chí Minh từng tự nhận là học trò nhỏ của Khổng Tử, nhưng nay lại được đặt ở vị trí cao hơn “vạn thế sư biểu”.

Thiết chế thờ tự này đi ngược lại đạo lý “tôn sư trọng đạo”.

Năm 1958, khi sang thăm Ấn Độ, ông Hồ Chí Minh đã từ chối ngồi lên chiếc ghế giống như ngai vàng do Thủ tướng J. Nehru mời, thay vào đó là một chiếc ghế giản dị hơn. Nếu còn sống, có lẽ ông cũng không hài lòng với thiết chế thờ tự ở Văn miếu Trấn Biên hiện nay.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến nhận xét về việc Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc xây xong mà chưa biết thờ ai: “Xưa nay từ thời phong kiến, vua muốn xây dựng một công trình nào đó là một việc cực lớn, phải đưa ra bàn bạc với các quan đại thần, rồi từ đó mới tính đến chuyện tiền bạc thế nào. Chứ không phải xây xong rồi thích nhét một vị nào đó vào thì nhét đâu”.

Sở Kế hoạch – Đầu tư và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc nêu rõ lý do xây dựng Văn miếu là để thờ Khổng Tử và các danh nhân văn hóa dân tộc.

Tuy nhiên, khi dư luận lên tiếng, lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc lại thiếu “dũng khí”, nói quanh co, khiến dư luận cho rằng việc xây dựng Văn miếu thiếu “chính danh”. Tiến sĩ Trần Quốc Tuấn nhận định: “Đã gọi là Văn miếu thì chả thờ Khổng tử và một vài Nho sĩ Trung Quốc thì thờ ai? Buồn cười công trình xây xong rồi lại bảo là không thờ Khổng tử”.

Nếu không thờ Khổng Tử, có lẽ nên thay chữ “Văn” trong “Văn miếu” thành “Lãnh tụ miếu” hoặc “Danh nhân văn hóa dân tộc miếu” để đảm bảo “chính danh”.

Đả Phá Khổng Tử

Trong quá khứ, Khổng giáo từng bị xem là “hệ tư tưởng phản động và bảo thủ” cần phải loại trừ. Năm 1973, nhà giáo Nguyễn Lân đề xuất vận dụng phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”, nhưng bị chỉ trích mạnh mẽ.

Mặc dù hiện nay sách về Nho giáo được xuất bản công khai, nhưng nhiều người vẫn còn tư tưởng xem Nho giáo là “hệ tư tưởng phản động”. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Will Durant nhận xét: “Không nên trách Khổng tử về những nhược điểm ấy… Rất ít người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng tử… Ngay ở thời đại chúng ta, ông vẫn còn là người chỉ đường chắc chắn cho chúng ta”.

Học thuyết Nho giáo vẫn còn nhiều giá trị trong cuộc sống hiện nay. Việc tôn thờ các nhà sáng lập các học thuyết hữu ích cho nhân loại là việc làm phải đạo. Để trở thành một người cán bộ lãnh đạo có năng lực, cần tuân thủ “bát điều mục” trong Nho giáo: chính tâm, thành ý, cách vật, trí tri, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Việc xây dựng và duy trì Văn miếu cần được xem xét kỹ lưỡng, đảm bảo phù hợp với giá trị văn hóa truyền thống và tín ngưỡng hiện đại, tránh tình trạng lãng phí và gây tranh cãi trong dư luận.

Tài liệu tham khảo

1 – sentayho.com.vn/vietnamese/reportfromvn/vanmieu-past-and-present-ttvn-04262017071110.html

2 – Hữu Ngọc, Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh niên, tr. 101

3 – Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tập 3, Nxb Thuận Hóa Huế- 1993, tr.225

-Đại Nam điển lệ toát yếu (Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác phiên âm và dịch nghĩa),Nxb TPHCM, tr. 19

4 – Nguyễn Văn Tú (Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn miếu- Quốc tử giám), Bàn về ý nghĩa các tên gọi của Văn miếu- Quốc tử giám trong lịch sử. In chung trong tập “Hội thảo khoa học Văn miếu -Quốc tử giám Hà Nội và hệ thống di tích Nho học Việt Nam”, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội; Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn miếu- Quốc tử giám chịu trách nhiệm xuất bản năm 2008, tr.136,137

5 – Đặng Văn Bài, Nho giáo Việt Nam- Từ góc nhìn di sản văn hóa, tr. 62. In chung trong “Hội nghị khoa học các đơn vị quản lý di tích Nho học Việt Nam” do Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn miếu-Quốc tử giám Hà Nội xuất bản

6;8 – sentayho.com.vn/vn/giai-tri/van-mieu-vinh-phuc-xay-xong-chua-biet-tho-ai-243334.html

7 – sentayho.com.vn/vn/thoi-su/xay-dung-van-mieu-vinh-phuc-sai-sot-hang-chuc-ty-319581.html

9 sentayho.com.vn/doc-duong-van-hoc/ve-khau-hieu-“tien-hoc-le-hau-hoc-van”.html

10 – Will Durant, Lịch sử Văn minh Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 92-93