“Bến Quê” Nguyễn Minh Châu: Phân Tích Sâu Sắc và Giá Trị Vượt Thời Gian

“Bến Quê” là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trích từ tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1985. Tác phẩm này thường được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Dưới đây là phân tích chi tiết về tác phẩm, giúp độc giả hiểu rõ hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của “Bến Quê”.

Hình ảnh minh họa khung cảnh bến quê, nơi nhân vật Nhĩ hướng vọng về trong những ngày cuối đời.

I. Nguyễn Minh Châu: Nhà Văn Tiêu Biểu Của Văn Học Việt Nam

Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), sinh tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại.

  • Quá trình hoạt động:
    • Năm 1950, ông gia nhập quân đội và học tại trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
    • Từ 1952 – 1958, ông chiến đấu và công tác tại Sư đoàn 320.
    • Năm 1963, ông chuyển về Phòng Văn nghệ Quân đội, sau đó làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội.
    • Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
  • Phong cách sáng tác: Nguyễn Minh Châu được biết đến với phong cách viết sâu sắc, giàu tính triết lý, thường tập trung vào những vấn đề nhân sinh và số phận con người trong xã hội hiện đại. Ông là một trong những người mở đường cho văn học đổi mới sau năm 1975.
  • Tác phẩm tiêu biểu:
    • Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Lửa từ những ngôi nhà (1977)…
    • Tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1987)…
    • Tác phẩm cho thiếu nhi: Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Đảo đá kỳ lạ (1985)…
    • Tiểu luận phê bình: Trang giấy trước đèn (1994)…

II. “Bến Quê”: Khát Vọng Tìm Về Những Giá Trị Đích Thực

1. Hoàn cảnh ra đời

Truyện ngắn “Bến Quê” được in trong tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1985, đánh dấu một giai đoạn sáng tác mới của Nguyễn Minh Châu, khi ông tập trung vào những vấn đề đạo đức và nhân sinh trong cuộc sống đời thường.

2. Ý nghĩa nhan đề “Bến Quê”

Nhan đề “Bến Quê” mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc, gợi lên những giá trị thiêng liêng và bền vững:

  • Hình ảnh quê hương: “Bến quê” gợi lên hình ảnh một miền quê thanh bình, yên ả với những gì thân thuộc nhất: dòng sông, bãi bồi, cánh đồng… Đó là nơi sinh ra, lớn lên và gắn bó máu thịt với mỗi con người.
  • Tình cảm gia đình: Bến quê còn là biểu tượng cho mái ấm gia đình, nơi có những người thân yêu luôn sẵn sàng chở che, yêu thương và tha thứ. Đó là nơi ta tìm về sau những bôn ba, vất vả của cuộc đời.
  • Giá trị tinh thần: “Bến quê” đại diện cho những giá trị văn hóa truyền thống, những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam như lòng nhân ái, sự thủy chung, tình nghĩa xóm làng…
  • Sự thức tỉnh: Nhan đề “Bến Quê” mang ý nghĩa thức tỉnh, nhắc nhở con người hãy trân trọng những giá trị bình dị, gần gũi mà đích thực của cuộc sống, của quê hương. Đôi khi, chúng ta mải miết chạy theo những điều xa xôi mà quên đi những điều quan trọng nhất ở ngay bên cạnh mình.

3. Bố cục tác phẩm

Truyện ngắn “Bến Quê” có thể chia thành 3 phần:

  • Phần 1: (Từ đầu đến “trước cửa sổ nhà mình”): Tình cảnh của nhân vật Nhĩ và cuộc trò chuyện giữa Nhĩ với Liên.
  • Phần 2: (Tiếp theo đến “lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ”): Hành trình sang bên kia sông của Tuấn.
  • Phần 3: (Còn lại): Chuyến ghé thăm Nhĩ của cụ giáo Khuyến.

4. Tóm tắt nội dung

Nhĩ, một người đàn ông từng đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị bệnh tật trói chặt trên giường. Nằm trên giường bệnh, Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp bình dị, thân thương của bến quê ngay trước cửa sổ nhà mình. Anh khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông, nhưng không thể thực hiện được. Nhĩ nhờ con trai là Tuấn sang bên kia sông giúp mình, nhưng Tuấn lại bị cuốn hút vào những trò chơi trên đường và lỡ chuyến đò. Cuối cùng, Nhĩ nhận ra một quy luật đầy nghịch lý: con người ta thường khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình trên đường đời, và cần phải dứt ra khỏi chúng để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống.

5. Giá trị nội dung

“Bến Quê” mang đến những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người:

  • Tình yêu quê hương: Truyện khẳng định tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng, gắn bó máu thịt với mỗi con người. Quê hương là nơi ta tìm thấy sự bình yên, thanh thản và những giá trị tinh thần cao đẹp.
  • Giá trị gia đình: Gia đình là điểm tựa vững chắc, là nơi ta tìm thấy tình yêu thương, sự sẻ chia và tha thứ. Hãy trân trọng những giây phút bên gia đình, bởi đó là những khoảnh khắc vô giá.
  • Sự thức tỉnh: Truyện thức tỉnh con người về những giá trị đích thực của cuộc sống. Đôi khi, chúng ta mải miết chạy theo những điều xa xôi mà quên đi những điều quan trọng nhất ở ngay bên cạnh mình. Hãy biết trân trọng những gì mình đang có, và sống một cuộc đời ý nghĩa.
  • Bài học về sự chiêm nghiệm: Thông qua nhân vật Nhĩ, tác giả gửi gắm bài học về sự chiêm nghiệm và nhận thức lại giá trị cuộc sống khi đối diện với giới hạn của đời người.

6. Đặc sắc nghệ thuật

Nguyễn Minh Châu đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc để thể hiện chủ đề của truyện:

  • Miêu tả tâm lý nhân vật: Tác giả miêu tả tinh tế những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật Nhĩ, từ sự hối tiếc, khao khát đến sự chiêm nghiệm và thức tỉnh.
  • Sử dụng hình ảnh biểu tượng: Hình ảnh “bến quê” mang tính biểu tượng sâu sắc, gợi lên những giá trị thiêng liêng và bền vững của quê hương, gia đình và những giá trị tinh thần tốt đẹp.
  • Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tình huống truyện éo le, khi nhân vật Nhĩ bị bệnh tật trói chặt trên giường, càng làm nổi bật khát vọng tìm về với quê hương và những giá trị đích thực của cuộc sống.
  • Giọng văn trầm lắng, giàu suy tư: Giọng văn của Nguyễn Minh Châu trong “Bến Quê” mang đậm chất triết lý, gợi nhiều suy tư về cuộc đời và con người.

Bến Quê

Ngoài cửa sổ, những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở đã có màu sắc nhợt nhạt. Có lẽ vì sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn, vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập trong phòng cùng với thứ ánh sáng lóa mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.

Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.

Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bông tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình.

Anh không dám nhìn vào mặt con. Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn – một màu tím thẫm như bóng tối…

Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên:

– Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?

Liên giả vờ không nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ òa vào giấc ngủ.

– Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?

Liên vẫn không đáp và biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai chồng:

– Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.

Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.

– Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh.

– Có hề sao đâu…

Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này… Ngừng một lát, Liên nói tiếp:

– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười, nhất định anh đi lại được.

– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến.

Liên biết chồng nói đùa:

– Đi Thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc… hoặc giá anh lại khỏe hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc.

– Ừ, tưởng gì… nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…

Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ:

– Em đỡ anh nằm xuống nhé?

– Khoan. Em cần ra chợ hay đi đâu thì cứ đi. Khi nào mỏi anh sẽ gọi con.

Một lát sau Nhĩ còn nghe tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con điều gì đó. Liên hãm nước thuốc ở cái siêu đất ra chiếc bát chiết yêu, Nhĩ đoán thế, nghe tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà. Rồi Liên xuống thang, vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm.

Chờ Liên xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:- Tuấn, Tuấn à! Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch.

Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dảy cộm gập đôi:

– Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!

– Chưa… – đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.

Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:

– Đã bao giờ Tuấn… sang bên kia chưa hả?

– Sang đâu hả bố?

– Bên kia sông ấy!

Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:

– Chưa…

Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:

– Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố…

– Để làm gì ạ?

– Chẳng để làm gì cả. – Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra quá ư kì quặc – Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về…

Anh con trai cười:

– Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?

– Hay là thế này nhé. – Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến – Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.

Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phòng đến trưa có thể nắng to – theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ – giắt vào người mấy đồng bạc.

Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được nửa vòng trái đất – trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La-tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức. Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống.

Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.

Từ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp: “Ừ, ừ… chào cháu!”. Cô bé nhảy lên phản, vừa mò vào người Nhĩ đã vội vã nhảy xuống, nó chạy ra đầu cầu thang cầm đoạn dây khẽ phất xuống bên dưới và gọi toáng lên:

– Vân ơi, Tam ơi, Hùng ơi!

Một lát sau không phải chỉ có ba đứa mà cả một lũ trẻ ở tầng dưới lần lượt chạy lên:

– Chúng cháu chào bác ạ!

– Chào bác Nhĩ ạ!

Vây bọc bởi đám trẻ con đứng lố nhố chung quanh. Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chúng chăm sóc và chơi với.

Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất – từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân.

Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả một chiếc chăn gập lại rồi sau đó mới bê cái chồng gối đặt sau lưng.

Chẳng biết thế nào mà sáng nay tất cả những ngón tay của chúng đều chua lòm mùi nước dừa, nhưng không sao, vì thế anh càng yêu lũ trẻ trong ngôi nhà mình.

Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.

Sát bên bờ của dải đất lở dốc đứng bên này, một đám đông khách đợi đò đứng nhìn sang. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy. Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn không tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.

Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.

Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sao nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Con đò đã sang quá nửa sông, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.

Giữa lúc Nhĩ đang nhìn thấy trong tưởng tượng chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa – chợt nghe sau lưng có tiếng ho. Nhĩ quay lại.

Ông cụ giáo Khuyến tựa trên chiếc gậy song đang đứng bên phản. Đã thành lệ, buổi sáng nào ông cụ già hàng xóm đi xếp hàng mua báo về cũng ghé vào hỏi thăm sức khỏe của Nhĩ.

– Cụ ạ – Nhĩ bắt đầu ra hiệu về phía đầu tấm nệm nằm của mình – cháu Huệ có gửi lại chìa khóa cho cụ.

– Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?

– Dạ, con cũng thấy như hôm qua…

Chợt ông cụ già hàng xóm hốt hoảng quá! Ông cụ giáo Khuyến chợt nhận thấy mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.

Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.